TƯ TƯỞNG VIỆT NAM VỀ HÔN NHÂN GIA Đ̀NH

Thánh Gia

Bài thuyết tŕnh lễ Khánh nhật Hôn nhân
tại Giáo Xứ Việt Nam Paris
ngày 22/12/1996

 

Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.

Đây có lẽ là áng văn hay nhất mà ta có thể t́m được để đọc và hiểu tư tưởng Việt Nam về hôn nhân và gia đ́nh. Hôn nhân đặt căn bản ở đâu ? Có mục đích ǵ ? Gia đ́nh có sứ mệnh nào ? Mục đích ǵ ? Đó là bốn câu hỏi chính mà, nếu đọc kỹ bài thơ trên, ta sẽ t́m được nhiều yếu tố trả lời rất sâu xa, chắc chắn, vắn gọn và súc tích, chuyên chở những nét đặc trưng căn bản của văn hoá gia đ́nh Việt Nam.

Bốn câu thơ được diễn tả dưới thể thơ lục bát, là thể văn thông dụng nhất và b́nh dân nhất của thơ văn Việt Nam : tư tưởng b́nh dân được diễn tả qua thơ b́nh dân.

Bốn câu thơ chuyên chở bốn ư tưởng lớn và chỉ dùng thể khẳng định, giống như những phán quyết chắc chắn. Một liên từ, liên từ ‘mới’, co tính cách lư luận. Liên từ này nối hai câu đầu với hai câu sau.

Tư tưởng đầu tiên ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’ là một phán quyết khẳng định như là một sự thật hiển nhiên.

Tư tưởng thứ hai ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là một mệnh lệnh có tính cách luân lư. Như có ư bảo : chồng phải hoà, vợ phải thuận , nhà phải thường và tất cả phải yên vui. Nói theo kiểu toán học, th́ tư tưởng thứ nhất ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’ là một định lư. Tư tưởng thứ hai ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là một định đề.

Cả hai tư tưởng làm lên phần thứ nhất của bài thơ và là tiền đề lư luận để đi đến luận chứng của phần thứ hai, hậu quả của phần thứ nhất. Có hai hậu quả. Hậu quả thứ nhấ là ‘Sinh con mới ra thân người’. Và hậu quả thứ hai là ‘Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no’.

Dùng phương pháp giảng văn[1], sau đây tôi sẽ phân tích từng vế, từng câu, từng chữ bài thơ hầu đọc kỹ bài thơ để tặng các đôi bạn đang lên đường vào hôn nhân và biếu các cha mẹ đă trải qua một chặng đường gia đ́nh[2].

 

*     *     *

 

Vợ chồng là nghĩa tào khang
Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui

Chúng ta hăy khởi sự phân tích hai câu thơ đầu, cũng là phần thứ nhất của bài thơ.

1. Vợ chồng là nghĩa tào khang

Vợ chồng là sự nối kết giữa hai người nữ nam bằng t́nh dục và t́nh yêu, qua hôn nhân, để cùng chung sống với nhau, cùng chia sẻ và cùng giúp đỡ lẫn nhau.

Vợ là người đàn bà có chồng. Người đàn bà có chồng là người đàn bà nối kết và ăn ở với người đàn ông bằng t́nh yêu và t́nh dục một cách công khai qua hôn nhân. Người vợ khác với cô bồ, khác với người t́nh nhân. Cô bồ và người t́nh nhân chỉ là những người đàn bà thương yêu người đàn ông, hoặc được người đàn ông thương yêu. Người vợ cũng khác với gái hoang, gái điếm, và người đàn bà ngoại t́nh, dâm phụ. Những người này chỉ là những người đàn bà nối kết với người đàn ông bằng t́nh dục ngoài hôn nhân.

Chồng là người đàn ông có vợ. Người đàn ông có vợ là người đàn ông nối kết và ăn ở với người đàn bà bằng ái t́nh và t́nh dục một cách công khai qua hôn nhân. Người đàn ông yêu người đàn bà không qua hôn nhân gọi là người lăng mạn . Và người đàn ông làm t́nh với người đàn bà ngoài hôn nhân gọi là gă sở khanh, đứa điếm đàng hay kẻ gian phu.

 

Vợ chồng là một trong năm đẳng cấp xă hội cổ truyền. Nếu đạo quân thần trọng ở chữ trung, đạo phụ tử nặng ở chữ hiếu, cũng như đạo huynh đệ quí ở chữ đễ và đạo bằng hữu nặng ở chữ tín, th́ đạo vợ chồng sâu ở chữ nghĩa.

Vợ chồng, như vậy, là một định chế xă hội, cũng gọi là hôn nhân, để chính thức và công khai chấp nhận nhu cầu t́nh yêu và t́nh dục của một người nam, con trai và một người nữ, con gái.

Vợ chồng là một trong năm đẳng cấp xă hội cổ truyền. Nếu đạo quân thần trọng ở chữ trung, đạo phụ tử nặng ở chữ hiếu, cũng như đạo huynh đệ quí ở chữ đễ và đạo bằng hữu nặng ở chữ tín, th́ đạo vợ chồng sâu ở chữ nghĩa. Đó là ư nghĩa của thành ngữ ‘Nghĩa tào khang’.

Nghĩa là một trong năm đức thường của người ta. Đó là nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Ngược với chữ lợi, chữ nghĩa chỉ đức tính tốt, làm theo điều phải. Chữ nghĩa hàm chứa tính cách bất vụ lợi như ‘nghĩa cử’, tính cách trung thành và hy sinh như ‘nghĩa bộc’, ‘nghĩa tử’, ‘nghĩa hữu’, tính cách khí khái, hăng hái, dấn thân như ‘nghĩa khí’.

Trong mạch văn ‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’, mà vợ chồng là một định chế, chữ ‘nghĩa’ là đức tính căn bản của vợ chồng, đă được dùng để định nghĩa cho hôn nhân. Nó là một tương quan trong năm tương quan: Trung, Hiếu, Nghĩa, Đễ, Tín. Nó là một định chế trong năm định chế: Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Phụ, Huynh-Đệ, Bằng-Hữu. Chữ ‘nghĩa’ ở đây bao hàm ư nghĩa của một định chế tốt, phải đạo, được xă hội công nhận.

Tào khang là một từ ngữ rút ra từ câu trả lời của Tống Hoàn Công cho vua Quang Vơ. Số là vua Quang Vơ có ngưới em gái goá chồng, tên là Hồ Dương công chúa. Bà này đem ḷng yêu thương quan Tống Hoàn Công và nhờ anh là vua Quang Vơ dạm hỏi, mối mai. Vua Quang Vơ bèn kiếm dịp gạ hỏi xem ư Tống Hoàn Công thế nào.

Ngày kia, vua hỏi Tống Hoàn Công rằng: ‘Trẫm nghe thiên hạ nói giầu đổi bạn, sang đổi vợ. Vậy ư khanh thế nào? Tống hoàn Công là người có nghĩa, có đức độ và đă có vợ, lấy nhau từ thuở hàn vi, bèn trả lời rằng: ‘Tào khang chi thê bât khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong’, nghĩa là vợ chồng lấy nhau từ lúc khổ cực chẳng nên bỏ, bạn bè kêt giao từ thuở nghèo hèn chẳng nên mất. Tào khang dịch là khổ cực là dịch theo nghĩa bóng. Nghĩa đen ‘tào’ là cái máng, cái chậu cho súc vật ăn, ‘khang’ là cám gạo.

Có người đọc chữ ‘tào’ là ‘tao’. Chữ nho là một chữ. Nhưng dịch sang chữ việt, ‘tao’ có nghĩa là cái hèm rượu. Xét ra ít hợp lư hơn là chữ ‘tào’.

‘Nghĩa tào khang’, nhu vậy, là môt định chế phải đạo, lấy sự hy sinh, trung tín, chung thuỷ làm đầu.

‘Vợ chồng là nghĩa tào khang’, bởi vây, là một định nghĩa vừa sát thực, vừa lư tưởng. Sát thực, v́ vợ chồng là môt định chế mà xă hội chính thức và công khai cho phép và công nhận nam nữ yêu thương và ái ân, thoả măn hai nhu cầu t́nh yêu và t́nh dục. Lư tưởng, v́ định chế vợ chồng buộc hai người nam nữ đă nối kết ăn ở và gắn bó phải chung thủy với nhau, lúc hèn cũng như lúc sang, lúc nghèo cũng như lúc giầu, lúc cực cũng như lúc sướng. Lư tưởng này cũng là mục tiêu thứ nhất của hôn nhân vợ chồng.

2. Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui

Chồng hoà là chỉ cách cư xử chính yếu của người chồng. Chữ ‘hoà’ trước nhất có nghĩa là vừa phải, không quá trớn như ‘điều hoà’, không có cạnh tranh xung đột như ‘hoà b́nh’, ‘hoà thuận’.

Chữ ‘hoà’ đây có tương quan chặt chẽ với chữ ‘trung dung’. Trung dung là sách của thày Tử Tư, dạy cách cư xử theo lẽ phải. Cái lẽ phải không thể định trước được, mà phải tùy theo việc, làm cho hợp với thời thế, với nhân sinh và với lương tâm của ḿnh.

Quá cái lẽ phải, đó là thái quá.

Chưa đúng với lễ phải, đó là bất cập.

‘Hoà nhi bất đồng’ hoà hợp với mọi người mà không đồng hoá với ai, đó là tôn chỉ của chữ ‘hoà’. ‘Thiên thời, địa lợi, nhân hoà’ vừa là chiến lưôc quản lư của Tôn Tử, vừa là kết quả của cách cư xử ’hoà’ vậy. Đó là trên th́ hợp ư trời, dưới th́ được may mắn thuận lợi, và với mọi người th́ được ḷng ưng thuận. ‘Cao bằng thấp vừa‘, đó là cách diễn tả xă hội của chữ ‘hoà’, biểu diễn một cách cư xử hàng ngày trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội.

Vợ thuận là chỉ đức căn bản của người vợ. Chữ ‘thuận’ có nghĩa là theo, bằng ḷng theo, phục theo. Chữ ‘thuận’ đây ở mức đạo, là ‘thuận đạo’, hàm ư nghe theo, sống theo, chết theo. Trước đó, có thuận cảm, thuận t́nh. Bởi đó, có ba mức thuận.

Thuận cảm thường ở thuở sơ giao, mới gặp. Cảm v́ đức, cảm v́ tài, cảm v́ dung mạo tính t́nh dễ thương, cảm v́ gia thế, cảm v́ chí khí. Chữ cảm này thường biểu lộ một sự thích thú, khoái chí, thèm muốn. Khi cô trả lời cậu là ‘hổng thèm đâu’, là đă có thèm một tư rồi.

Sau mức thuận cảm th́ có thuận t́nh. T́nh đây là t́nh nhớ, t́nh thưa, t́nh gởi, t́nh thương, t́nh t́m, t́nh trao. Khi cô thấp giọng khẽ thưa ‘dạ chịu’, là cô biểu lộ một sự bằng ḷng đắm say vậy.

Thuận cảm và thuân t́nh là hai chữ thuận đưa đến chữ thuận thứ ba : ‘thuận đạo‘, được xác định một cách qui củ qua chữ ‘ṭng phu’, theo chồng.

Nho giáo dậy người đàn bà chữ tam ṭng, tứ đức. Bốn đức là công, dung, ngôn và hạnh. Tam ṭng là theo cha, theo chồng, theo con. Chữ ‘vợ thuận’ đây hàm chứa đức thuận ṭng của người vợ đối với người chồng. Thực ra chữ thuận luôn đi đôi với chữ hoà. Nếu có chồng hoà thi đương nhiên có vợ thuận. Và nếu có vợ thuận th́ ắt có chồng hoà.

Nhà nghĩa đen là cái nhà để ở, nghĩa bóng là gia đ́nh. Nếu hôn nhân vợ chồng là một định chế có tính chất khế ước, có tính cách pháp luật, th́ gia đ́nh là một định chế có tính cách tương quan, cộng đoàn chung sống dưới một mái nhà. Nếu hôn nhân vợ chồng chỉ là định chế nối kết người nam và người nữ, th́ gia đ́nh là một định chế sản sinh và qui tụ nhiều thế hệ khác nhau, có thể đến tam thân : vợ chồng, cha con, anh em ; hoặc đến tứ đại, ngũ đại, thậm chí có thể lên đến cửu tộc: cao, tằng, tổ, khảo, kỷ thân, tử, tôn, tằng, huyền : cố tổ, cố nội, ông nội, cha, ḿnh, con, cháu, chút, chít.

Thường yên vui là thường xuyên được yên vui ; yên vui hạnh phúc là lẽ b́nh thường, lẽ tất nhiên. Nhưng chữ ‘thường’ cũng có thể hiểu là đạo ngũ thường, tức là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. ‘Nhà thường’ là gia đ́nh giữ đạo ngũ thường. Có lẽ hiểu theo nghĩa này th́ đúng ư sâu xa của câu thơ hơn, vi nó đi từ hai yếu tố tiên khởi cấu thành, là ‘chồng hoà’ và ‘vợ thuận’, đến toàn thể cộng đoàn là ‘nhà thường’. Và cả câu thành ư nhị hơn : chồng hoà, vợ thuận, gia đ́nh đạo đức, đó là an vui hạnh phúc vậy.

Như vậy, ‘Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui’ là mục tiêu thứ hai của hôn nhân vợ chồng : xây dựng một gia đ́nh hạnh phúc. Gia đ́nh có thể chỉ là vợ chồng, hoặc bao gồm cả tam thân, tứ đại, cửu tộc. Muốn đạt được hạnh phúc ấy, chồng phải hoà, vợ phải thuận và gia đ́nh phải có đạo đức ngũ thường.

 

*     *     *

 

Sinh con mới ra thân người
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no

Liên từ ‘mới‘ giới thiệu một sứ mệnh sẽ đạt thành, một kết quả sẽ hái được. Sứ mệnh và kết quả này tùy thuộc vào những nguyên nhân tiên quyêt ở trước. Hai kết quả hay sứ mệnh sẽ đến là sinh được con cái được dậy dỗ đầy đủ để ra thân người và có công ăn việc làm phát đạt để ấm no suốt đời cha con. Hai kết quả này tất nhiên sẽ đạt được, nếu có hai nguyên nhân trên, là vợ chồng chung thủy và gia đ́nh hoà thuận hạnh phúc. Nói khác đi, nếu vợ chồng chung thủy và gia đ́nh hoà thuận hạnh phúc th́ mới có được con cái thành người và làm ăn phát đạt ấm no đời đơi.

3. Sinh con mới ra thân người

Sinh con. Chúng ta lưu ư ở đây một sự kiện mới đă xuất hiện : sự sinh con. Tên gọi vợ chồng đă được thay đổi bằng tên gọi cha me. Định chế hôn nhân vợ chồng đă được hoàn hảo bằng định chế gia đ́nh. Không phải ngẫu nhiên mà câu thơ thứ nhất dùng chữ ‘vợ chồng’, đến câu thơ thứ hai dùng chữ ‘nhà’ và để câu thơ thứ ba dùng chữ ‘sinh con’.

Sinh con là một trong cửu tự cù lao, chín chữ siêng năng khó nhọc của bậc cha me : cha sinh (sinh), mẹ đẻ (cúc), vỗ về (phủ), dậy dỗ cho khôn ngoan (dục), trông nom (cố), quấn quít dấu yêu (phục), nâng đỡ nhắc bảo (phủ), nuôi dưỡng cho lớn (súc), và bồng bế (phúc). Cửu tự cù lao đồng nghĩa với việc giáo dục hiểu theo nghĩa rộng, mà việc sinh sản là khởi đầu.

Theo sinh học th́ sinh con là việc tự nhiên. Theo tâm lư xă hội học th́ sinh con là một nhu cầu truyền sinh để bảo vệ ḍng giống. Theo đạo lư Việt Nam th́ sinh con là một điều quí, mà ai cũng mong muốn có và có nhiều. Bởi vậy, mới có lời chúc ‘tam đa’, ‘ngũ phúc’ vào dịp cưới hỏi và được lặp lại hằng năm vào dịp tết nhất. Ba cái nhiều ta hằng chúc nhau là ‘đa tử, đa tôn, đa phú quí’, nhiều con, nhiều cháu, nhiều giầu sang. Năm cái phúc ta vẫn mong là ‘phú, quí, thọ, khang, ninh’, giầu có, sang trọng, sống lâu, khoẻ mạnh và b́nh an.

 

Cha sinh (sinh), mẹ đẻ (cúc), vỗ về (phủ), dậy dỗ cho khôn ngoan (dục), trông nom (cố), quấn quít dấu yêu (phục), nâng đỡ nhắc bảo (phủ), nuôi dưỡng cho lớn (súc), và bồng bế (phúc). Cửu tự cù lao đồng nghĩa với việc giáo dục hiểu theo nghĩa rộng, mà việc sinh sản là khởi đầu.

Ra thân người. Có con là điều tốt, có nhiều con là điều tốt hơn. Nhưng có con thành thân thành người mới là chính yếu quan trọng. Muốn được thế, cha mẹ phải làm sao cho chúng ‘ra’. Chữ ‘ra’ nghĩa thứ nhất là ‘ra khỏi’ như ‘ra khỏi nhà’. Nghĩa thứ hai là ‘trở nên, trở thành, hoá ra’.

Chữ ‘ra’ này không ǵ khác hơn là chữ ‘giáo dục’ mà ta dùng hiện nay. Giáo dục, như chữ ‘ra’, đầu tiên có nghĩa là việc làm cho ta ra khỏi sự tối tăm, dốt nát, non dại, và sau đó đưa ta trở thành thông bác, khôn ngoan, đạo đức. Sinh con là một phúc đức của vợ chồng và giáo dục con thành thân thành người là bổn phận của cha mẹ. Mục tiêu giáo dục con cái mà cha mẹ ở gia đ́nh phải đạt đến là thành thân thành người.

Thân người. Chữ ‘thân’ trước nhất chỉ thân xác, thân thể, h́nh dáng thể lư. Giáo dục bởi vậy đầu tiên phải chú trọng đến thân xác, sao cho phát triển, khoẻ mạnh, lành lặn. Không lạ ǵ khi việc nuôi cho ăn uống để lớn lên là một trong những việc được kể ra trong cửu tự cù lao. Bảo rằng giáo dục Á Đông lăng quên giáo dục thể lư là bày tỏ một sự thiếu hiểu biết về tư tưởng Việt Nam và Á Đông.

Chữ ‘thân’ c̣n có nghĩa là bản thân ḿnh, nhân vị ḿnh, như trong các chữ ‘thân kỷ’, ‘thân phận’. Và từ đó ám chỉ những tương quan thân cận của ḿnh với những người khác như ‘thân gia, thân quyến, thân thích, thân thuộc, thân tộc, thân tu,...’. Giáo dục bởi vậy, thứ đến , phải chú trọng đến tâm linh, nhân vị, luân lư và t́nh cảm.

Chữ ‘người’ bày tỏ một tính chất độc đáo của loài người. Ca dao Việt Nam diễn tả tính chất độc đáo của loài người như sau. Xin trích vài câu làm mẫu :


Đă sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tṛn.
Gái thời trinh tịnh ḷng son,
Sớm hôm ǵn giữ kẻo c̣n chút sai
Trai lành gai tốt ra người
Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên


Làm người phải biết cương thường
Xem trong ngũ đẳng, quân cương ở đầu

Có thể bảo rằng tính chất tâm linh là nét độc đáo nhất của con người. Chỉ con người mới có thể có hành động tâm linh. Nhưng chữ tâm linh không chỉ giới hạn vào luân lư, đạo đức, nhưng c̣n bao hàm cả nghề nghiệp, trí tuệ và quốc gia, xă hội nữa.

Trong sách Đại Học, thầy Tăng Tử thâu góp những lời dậy của Đức Khổng Tử, soạn thành hai chương, để dạy người ta sống cho đúng là người.

Trước nhất là ‘Tam cương lănh’, tức là ba điều cốt yếu tổng quát mà lúc nào, ở đâu và ai ai cũng phải lưu ư. Đó là ‘minh đức’ : sửa tính cho sáng, ‘tân dân’ : dậy dân phong hoá cho mỗi ngày mỗi mới mẻ và ‘chỉ chí thiện’ : cho đến mức tốt đẹp nhất.

Rồi đến ‘Bát điều mục’, tức là tám đ́ều áp dụng thực tế và theo chuyên biệt khu vực. Đó là
‘cách vật’ : học điều ǵ phải cho đến nơi,
‘trí tri’ : biết điều ǵ phải cho đến chốn,
‘thành ư’ : ư tưởng phải cho thành thật,
‘chánh tâm’ : để bụng việc ǵ phải cho ngay thẳng,
‘tu thân’ : tu sửa bản thân, nhân vị ḿnh,
‘tề gia’ : điều khiển, cư xử việc nhà cho ổn thoả, có gia phong,
‘trị quốc’ : lo việc ḿnh cho phải phép để nước được thịnh trị và kỷ cương,
‘b́nh thiên hạ‘ : góp phần lo cho thiên hạ được thái b́nh.

Chữ ‘người’ ở đây, bởi vậy, nói theo kiểu ngày nay, bao gồm bốn khía cạnh lư tưởng giáo dục không thể thiếu được. Đó là trí dục, đức dục, xă dục và dậy nghề.

‘Sinh con mới ra thân người’ là xác định bổn phận thứ ba của hôn nhân và sứ mệnh thứ nhất của gia đ́nh : sứ mệnh phải giáo dục con cái ‘cho ra thân người’. Giáo dục thân thể, giáo dục nhân vi, giáo dục t́nh cảm, giáo dục lư trí, giáo dục đức tính, giáo dục công dân xă hội và giáo dục nghề nghiệp.

4. Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no

Sau sứ mệnh sinh dưỡng và giáo dục con cái, có tính cách dài hạn và hướng về tương lai, là sứ mệnh phải làm ăn để được thịnh vượng ấm no. Sứ mệnh này có tính cách kinh tế, thực tế hàng ngày.

 

‘Sinh con mới ra thân người’ là xác định bổn phận thứ ba của hôn nhân và sứ mệnh thứ nhất của gia đ́nh : sứ mệnh phải giáo dục con cái ‘cho ra thân người’

Làm ăn. Nói ‘làm ăn’ là để phân biêt với ‘làm’. Nếu chỉ có ‘làm’ không, th́ chữ làm là làm việc, mà đức tính cần cù là căn bản. ‘Làm ăn’ đây, nói theo kiểu ngày nay là hành nghề. Và việc hành nghề phải có lời để kiếm ăn.

Chúng ta lưu ư tính cách thiết thực và mục đích cận kề của nó : làm để ăn, hoặc ăn để làm. ‘Làm ăn’ bởi vậy bao hàm tư cách hành nghề, như ‘làm chủ, làm thợ, làm công, làm mướn, làm thuê, làm khoán,...’. ‘Làm ăn’ cũng bao hàm cái nghề ḿnh làm, như ‘làm nông, làm thày, làm thợ, làm quan, làm buôn, làm bán,...’

Trong xă hội cổ truyền Việt Nam, có bốn ngành kinh tế để cho người ta làm ăn. Đó là làm hành chánh (sĩ), làm canh nông (nông), làm công kỹ nghệ (công), làm thương mại (thương). Trong tổ chức kinh tế tân tiến hiện đại, ngàn vạn nghề khác nhau, cũng qui về bốn ngành nghề căn bản này. Trước nhất là ba lănh vực kinh tế có tính cách thị trường : nông nghiệp, công nghiệp kỹ nghệ và thương măi dịch vụ. Thêm một lănh vực không có tính cách thị trường, đó là công chức hành chánh.

‘Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no’. Làm ăn ở đây không nhất thiết phải làm nghề ǵ, nhưng quan trọng là phải đạt được hai chỉ tiêu sau dây : thịnh vượngấm no. Chúng ta lưu ư quan niệm quản lư làm ăn rất hiện đại của Việt Nam. Đó là quan niệm quản lư theo mục tiêu. Chỉ tiêu thứ nhất là cho công việc ḿnh làm, xí nghiệp ḿnh điều khiển được thịnh vượng. Chỉ tiêu thứ hai là cho gia đ́nh ḿnh, đời ḿnh đến đời con, có chỗ chi tiêu, có ăn no mặc ấm. Sự phân chia lợi tức cũng đă được phác họa..

Tại sao thịnh vượng ấm no lại là một sứ mệnh của gia đ́nh ? Tại v́, nếu không có ăn no mặc ấm, là những nhu cầu tối thiểu để sinh tồn, và nếu không có thịnh vượng để thỏa măn những đ̣i hỏi cần thiết khác, th́ làm sao có thể có phương tiện để dậy con thành người ? Làm sao có điều kiện thuận lợi để làm cho gia đ́nh được yên vui hạnh phúc ? Thiếu ấm no thịnh vượng, th́ định chế gia đ́nh có nhiều nguy hiểm bị suy nhược và tan ră.

Thiếu ấm no thịnh vượng, th́ ở mức thấp hơn, là ở mức các phần tử gia đ́nh, các cá nhân này sẽ có thân thể suy nhược : đói rách hơn, ốm yếu hơn, chết sớm hơn, tâm linh yếu hèn : khó tự chủ, khó sáng suốt, khó khí khái, dễ nhu nhược, dễ gian dối, dễ trộm cắp, dễ cờ bạc, dễ nghiện ngập, dễ dị đoan, và địa vị xă hội thấp kém : làm bồi bếp, làm tôi tá, làm đầy tớ, làm nhập cư, không có tiếng nói, không có địa vị, sống trong xă hội mà ở ngoài ŕa xă hội.

Thiếu ấm no thịnh vượng, th́ ở mức độ cao hơn, là mức thôn xóm, xă làng, quốc gia, xă hội, th́ xă hội nào có nhiều gia đ́nh nghèo đói là xă hội có nhiều nguy hiểm, mà nguy hiểm lớn nhất là bất công, tham nhũng và độc tài. Rồi từ bất công, tham nhũng, độc tài, sinh ra loạn lạc, chiến tranh. Từ bất công, tham nhũng, độc tài, loạn lạc, chiến tranh sinh ra nghèo đói, ngu dân.. Phải hiểu cái ṿng luẩn quẩn này, thi mới hiểu được tư tưởng khôn ngoan của Việt Nam, đưa ‘Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no’ làm bổn phận thứ tư của hôn nhân và làm sứ mệnh thứ hai của gia đ́nh.

  Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.

Qua bốn câu thơ với 28 chữ vắn gọn ấy, một tư tưởng thâm thuư của người Việt Nam b́nh dân đă được tích trữ và giăi bày về vợ chồng, hôn nhân và gia đ́nh. Căn bản để định nghĩa, hôn nhân vợ chồng là một định chế mà xă hội công khai chấp nhận việc nam nữ yêu thương ái ân, nhưng đ̣i phải chung thủy. Mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đ́nh hạnh phúc, trong đó chồng hoà, vợ thuận và gia đ́nh đạo đức. Sứ mệnh của hôn nhân gia đ́nh là sinh con và giáo dục chúng để thành thân thành người. Và sau hêt, bổn phận của gia đ́nh là phải làm ăn để đạt chỉ tiêu thịnh vượng cho xí nghiệp, cho xă hội và ấm no cho gia đ́nh, con cháu,...

  Trần Văn Cảnh

 


Ghi Chú

1-Phương pháp giảng văn đặc biệt được giảng dạy trong các khoá tŕnh thi tuyển giáo sư trung học ‘Agrégation’ và CAPES’ trong ngành triết học
2-Bài này đă được in trên bản giấy và được tŕnh bày lần đàu tiên ngày 22.12.1996 tại Giáo Xứ Việt Nam Paris, trước khoảng 6O vị phụ huynh ghi danh mừng kỷ niệm 10, 15, 20, 25, 30, 35, 40, 45, 50 năm hôn nhân. Một phụ huynh đă ghi lại diễn tiến khóa tŕnh kỷ niệm hôn phối của phụ huynh như sau : "Chuẩn bị bằng buổi tĩnh tâm. Để chuẩn bị chu đáo cho các phụ huynh mừng Khánh nhật kỷ niệm hôn nhân, Ban Giám Đốc đưa ra một chương tŕnh chuẩn bị tinh thần và vật chất rất hấp dẫn. Trưa 22.12.96, từ 13g30 đến 14g30, hầu hết phụ huynh có mặt tham dự giờ chầu Ḿnh Thánh thánh hóa gia đ́nh. Qua các bài Phúc âm và sắc chỉ của Công đồng, các phần tử gia đ́nh cần yêu thương liên kết như cành nho với thân cây. Sau đó, từ 14g30. Gs Trần Văn Cảnh thuyết tŕnh về hôn nhân và gia đ́nh qua bốn câu ca dao:
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng ḥa vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.

Với nhiều kinh nghiệm giáo dục và đời sống gia đ́nh, Gs Cảnh đưa cử tọa, ngồi kín hội trường, vào buổi hội thảo rất hào hứng. Người nghe có dịp nh́n lại những năm đă chung sống qua t́nh tiết về tâm lư và xă hội. Tiếc là thời giờ có hạn, không trao đổi thêm về sự chồng ḥa vợ thuận, một vấn đề nóng bỏng khi người việt đang sống tại tây phương. Hội trường xin hẹn và sẵn sàng đón giáo sư vào dịp khác.

Toàn bài đă được in lại trong cuốn ‘Đường vào t́nh yêu‘, Paris : Giáo Xứ Việt Nam; 2000; trang 205- 217.
Toàn bài đă được đưa lên mạng lưới Giáo Xứ Việt Nam Paris ngày 28.09.2005, rồi Vietcatholic, Dunglạc,...

 


Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.