VỀ MIỀN VĨNH CỬU

Thánh Gia

Tưởng niệm Linh Mục Nhạc sĩ Hoài-Đức ,
ngày Cha vĩnh viễn ra đi khỏi cuộc đời trần gian: THỨ BẢY 07/07/07.

Vào cuối năm 2001, tôi có dịp về thăm quê hương, thăm họ hàng bà con đă từ lâu xa cách, và thăm người cháu mới được Chúa gọi lên chức Linh mục (cha Trần B́nh Trọng, hiện là cha xứ Giáo xứ Bút Đông, Tổng Giáo phận Hà Nội). Khi vào Sài g̣n tôi đă dành thời giờ đến thăm các cha tại Nhà Hưu Dưỡng bên cạnh nhà thờ Ngă Sáu, Chợ Lớn. Nhân dịp tôi cũng được thăm Cha Hoài Đức; nhưng rất tiếc, Cha đă nằm liệt và không trả lời được bằng lời nói, chỉ bằng ánh mắt, cử chỉ bên ngoài, và qua những kinh cầu nguyện mà tôi tưởng Cha vẫn ư thức được, dù không thể tỏ lộ ra bằng lời nói.

Khi trở lại Hoa Kỳ, nhân dịp Ngày Xuân Dân Tộc, nhớ đến Cha Hoài Đức, tôi có viết một bài về việc “Hái Lộc Đầu Xuân” và lấy những tư tưởng chính trong bài “Chúa Ơi Nay Ngày Xuân…” của Cha. Vào cuối bài, tôi có viết mấy ḍng để xin bạn đọc nhớ đến và cầu nguyện cho Cha đang nằm đau liệt tại nhà các Cha Hưu Dưỡng, Ngă Sáu.

Hôm nay, Chúa nhân từ đă gọi Cha về với Ngài để “say sưa trong sắc hương” của Mùa Xuân Vĩnh Cửu vào đúng ngày thứ Bảy, Mùng Bảy, Tháng Bảy, Năm 2007.

Tôi đă được đọc những bài viết về Cha Hoài Đức đăng trên các tờ báo khác nhau. Nơi đây tôi chỉ xin ghi lại một vài kỷ niệm để gởi đến các bạn hữu, đến những người đă quen biết Cha, những người đă “say sưa” “sốt sắng” hát các bản thánh ca Cha đă sáng tác để thờ phượng Chúa, tôn vinh Mẹ Maria, các Thánh; những người đă từng là học tṛ của Cha, đặc biệt khi Cha dạy ở Tiểu Chủng Viện Piô XII.

Hồi c̣n học ở Tiểu Chủng Viện Piô XII tại Ngă Sáu (Chợ Lớn), có lần đi nghỉ hè về, tôi được nghe chuyện vui về Cha mà lúc đó c̣n đang “làm Thầy”. Trong dịp nghỉ hè đó, có một “giai nhân” từ miền sông Hương, núi Ngự đến thăm Thầy Hoài Đức v́ chưa được gặp Thầy bao giờ, chỉ được nghe và hát các bản thánh ca thật hay, thật thanh thoát của Thầy, như bản “Cao Cung Lên” (thường hát vào dịp Lễ Giáng Sinh). Nghe các bản nhạc của Thầy, chị tưởng tượng Thầy là một thanh niên c̣n trẻ, có dáng vẻ thanh tú, đẹp trai, đầy duyên dáng… Nhưng khi được “diện kiến” th́ chị thấy trí tưởng tượng của chị đă tô vẽ quá nhiều về Thầy.

Cha Hoài Đức có dáng người hơi cao (theo vóc dáng người Á Châu), sắc da ngăm đen, vẻ mặt đôi khi có nét khắc khổ, dù luôn có nụ cười dịu hiền nở trên môi và dáng điệu hiền hoà, từ tốn. Thời gian làm Giáo sư ở đây, Cha chuyên dạy nhạc lư và tập hát cho các chủng sinh chúng tôi. Tôi nhớ có lần vào một lớp học chiều, vào khoảng tháng 10 th́ phải, khi vào lớp Cha đă hát cho chúng tôi nghe thử bài Cha vừa sáng tác, bài “Dâng Mẹ”:
“Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh…”. Lúc đó chúng tôi thực sự chưa cảm nghiệm được hồn nhạc của Cha trong bài này; hơn nữa, như Ngài thường nói với chúng tôi là “tiếng tôi như tiếng chiếc lon rỉ! …”. Nhưng rồi bài này đă được phổ biến rộng răi các nơi như chúng ta đều biết.

Thật lâu sau, vào khoảng năm 1973, khi tôi đang là Linh mục phục vụ tại Đà Lạt và Ngài đang là Cha Quản Lư Giáo Phận Ban-Mê-Thuột. Trong một dịp cần gấp, Cha đă gọi điện thoại cho tôi và tôi đă xin máy bay lên Ban-Mê-Thuột để đón Đức Cha Mai về họp Hội Đồng Giám Mục ở Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt. Dịp này tôi được đến thăm Cha tại Nhà Chung Ban-Mê-Thuột. Tôi thấy Cha vẫn sống đơn giản, và nụ cười hiền hoà vẫn nở trên môi… Sau đó chẳng bao giờ gặp lại Cha cho đến ngày được gặp lại Cha tại Nhà các Cha Hưu Dưỡng, lúc đó Cha chỉ nằm im lặng và nói chuyện bằng ánh mắt và những hơi thở yếu ớt , dù vẻ mặt vẫn c̣n nhiều khí sắc, nhưng đă già nua, và hằn lên những nét đau đớn v́ bệnh tật.

Hôm nay Chúa đă gọi Cha về, và hồn Cha đă hân hoan về với Chúa là người Cha nhân từ mà suốt đời Cha đă hết ḷng phục vụ qua nhiều giai đoạn khác nhau của cuộc đời. Cha sinh ra vào khoảng năm 1922 tại xứ Kẻ Nấp, phía tây nam thành phố Nam Định, gần biên giới tỉnh Ninh B́nh, cách không xa xứ Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị , đă từng nơi sinh hoạt của ‘Nhà Tràng Kẻ Vĩnh’: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nh́ Kẻ Vĩnh”). Cha đă được sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh đạo đức và từ nhỏ đă được gởi lên học tại Tiểu Chủng Viện Hoàng Nguyên (Hà Đông). Sau khi tốt nghiệp, đă đi giúp xứ, rồi được gọi về học tại Đại chủng viện Xuân Bích (Hà Nội) vào năm 1945 (Năm đói Ất Dậu). Nhưng những biến chuyển của thời cuộc đă làm cho việc học của các Thầy lúc đó bị gián đoạn nhiều lần qua những cuộc “chạy loạn” “tản cư” đi về các vùng an toàn. Tiếp theo đó là cuộc di cư vĩ đại năm 1954. Cùng đi theo nhà trường vào miền Nam , thầy Hoài Đức tiếp tục giúp Tiểu Chủng Viện Piô XII, Ngă Sáu, Chợ Lớn.

Dù trải qua nhiều gian khổ, thử thách lâu dài, Thày Hoài Đức vẫn kiên tŕ trong cuộc đời tu sĩ và vui vẻ lo chu toàn các nhiệm vụ Bề trên trao phó; trong khi vẫn cộng tác tích cực với các nhạc sĩ trong Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh và sáng tác những bản Thánh ca rất phổ biến.

Măi đến năm 1958 , Thầy mới được gọi để chịu chức Linh mục và tiếp tục làm Giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Piô XII, rồi lên phục vụ tại Chủng viện Thừa Sai Kontum, về lại Sàig̣n làm Tổng Thư Kư Ủy Ban Thánh Nhạc. Sau cùng Cha Hoài Đức đă nhập Địa phận Ban Mê Thuột và được Đức Cha Nguyễn Huy Mai, Giám mục Ban Mê Thuột, cử làm Quản lư Địa phận, kiêm nhiệm Giám đốc Cơ Quan Từ Thiện Công Giáo Caritas và Phong Trào Công Lư và Hoà B́nh. Trong thời gian này, Cha đă chứng tỏ, dù là một nhạc sĩ tài danh, và hầu hết cuộc đời sống trong các Chủng viện, nhưng khi “cờ đến tay” Cha đă chứng tỏ là một người rất thực tế và biết nh́n đến những nhu cầu của xă hội chung quanh để phục vụ những người nghèo khổ, thất học, cô đơn, bịnh họan. Cha đă dùng mọi thời giờ, tâm trí để giúp mở mang nhiều cơ sở giáo dục và từ thiện, nhà dưỡng lăo, quán cơm xă hội tại vùng cao nguyên này để giúp các người nghèo khó Kinh và Thượng.

Thế rồi cuộc đời Cha lại đi vào khó khăn thử thách cùng với biến cố đau thương 1975. Cha đă bị bắt đi tù “cải tạo” và di chuyển đi nhiều nơi trong suốt 10 năm, phần lớn là ở các trại “khổ sai” tại miền Bắc. Trong vất vả khổ sở ở các trại tù lao động, Cha vẫn luôn sống như một linh mục, một sứ giả của Chúa giữa những anh em cùng tù đày khốn khó để an ủi và nâng đỡ tinh thần cho mọi người.

Sau 10 năm tù đày khổ sở, và v́ đă già nua , bịnh hoạn, Cha mới được thả ra. Cha trở về tiếp tục sống cuộc đời linh mục trong tuổi già, bịnh hoạn, nhưng luôn vui vẻ, can đảm “vác thánh giá như Chúa đă vác trong những ngày Thương Khó để cứu chuộc nhân loại.”

Nay Cha đă được “Chúa thương gọi Cha về,…” gọi Cha về với Chúa, ra khỏi cuộc đời trần gian khổ ải, đi về “Miền Vĩnh Cửu” trong b́nh minh của Mùa Xuân viên mản.

“Mọi sự điều có lúc, mọi việc điều có thời… Thời để sinh ra, và thời để chết…” (Gv3:1…)
"…Mùa Đông đă qua, mưa đă tạnh… Ngàn hoa đă rực nở… Tiếng chim đă ca hót vang lừng…” (Diệu Ca 2:11…)… Cha đă can đảm “đi hết đọan đường của Cha” như ư Chúa muốn… Nh́n lại cuộc đời, Cha đă có thể nở một nụ cười tạ ơn Chúa và Mẹ Maria đă luôn giúp Cha kiên tŕ với Ơn Gọi, vượt qua mọi thử thách, khổ đau để phục vụ Chúa qua các người nghèo khó. Qua các bản Thánh ca mà Chúa Thánh Thần đă soi sáng để Cha viết lên theo ḍng nhạc những lời ca ngợi Chúa và rao giảng Tin Mừng t́nh thương của Chúa.

Cha vĩnh viễn ra đi khỏi cuộc đời này, nhưng c̣n để lại hương thơm cuộc đời hy sinh, khiêm tốn, đơn sơ, hèn mọn, với nụ cười diệu hiền, với tấm ḷng thành thực. Cha ra đi nhưng vẫn c̣n sống măi qua những bản Thánh ca mà Cha đă sáng tác và trong ḷng những con người mà Cha gặp gỡ và yêu thương phục vụ trong suốt dọc cuộc đời.

Xin hợp với thân bằng quyến thuộc và thân hữu của Cha, để chào tạm biệt Cha ra khỏi đời này và hẹn gặp lại Cha ngày đoàn tụ trong “Mùa Xuân Vỉnh Cửu” trên Nước Chúa.

“Xin Chúa cho Linh Hồn Cha Giuse được nghỉ yên muôn đời…”

Lm. Anphong Trần Đức Phương

 


 


Xem các bài viết khác trong Rev. Trần Minh Tiến, Khoá 7 GHHV Đà Lạt Việt Nam.