LOAN TIN MỪNG CHO D̉NG
HỌ
IMPRIMATUR
LỜI
GIỚI THIỆU
TỦ
SÁCH NƯỚC MẶN
Tin mừng đă đến trên quê hương này 480
năm. Một số nhà truyền giáo thuở đầu
đă nh́n truyền thống Đạo Hiếu của
phương Đông như một cánh cửa rộng
mở để đưa mọi người và mọi
gia tộc về với Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn
gốc mọi gia tộc trên trời dưới
đất (x. Ep 3,15).
Thế nhưng rồi cánh cửa đă khép lại.
Sau nhiều tranh luận của các nhà truyền giáo, Ṭa Thánh
đă quyết định rằng người tín hữu
Công giáo phương Đông chỉ được bày
tỏ tâm t́nh thiêng liêng đối với Ông Bà Tổ Tiên theo phụng
vụ Rôma, và phải ngưng những biểu lộ bên
ngoài theo truyền thống văn hóa địa
phương. Suốt hơn 200 năm, người Công giáo
đành mang tiếng "theo Đạo là bỏ Ông bỏ
Bà" để giữ một đức tin tinh tuyền,
chưa kể sự ngộ nhận ấy c̣n góp phần
khiến cơn bách hại thêm khốc liệt.
Năm 1964, Toà Thánh áp dụng cho người Công Giáo
Việt Nam huấn thị Plane Compertum est đă đề
ra cho Giáo hội tại Trung Hoa năm 1938, chấp thuận
cho người tín hữu Á Đông được thờ
cúng ông bà theo lối xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng
Giám Mục Việt
Cho tới nay sự giải tỏa đă
được gần 50 năm,
người Công giáo Việt Nam đă ṃ mẫm từng
bước để hội nhập lại vào một
truyền thống bị gián đoạn đă quá lâu
đời. Nhiều luận văn của sinh viên Công giáo
và nhiều sách báo đề cập vấn đề này
cũng như nhiều sáng kiến thực hành đă giúp hóa
giải được phần nào ngộ nhận nói trên.
Nhân dịp sắp đến kỷ niệm 50 năm
việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, tôi
cũng muốn được đóng góp cho anh chị em
đồng đạo một kinh nghiệm kiếm t́m và
một số minh họa, mong phần nào gợi hứng
để các bạn trẻ Công giáo dấn thân cho mối
liên kết ḍng họ bên nội và bên ngoại của chính
ḿnh. Sau nữa, tôi cũng mong được chia sẻ
với đồng bào ngoài Công giáo những nỗi khó
khăn và những xác tín sâu xa của người Công giáo
trên đường về với nguồn cội. Chắc
hẳn những chia sẻ chân thành cũng ôm theo nhiều
vụng về, đôi khi thái quá hoặc bất cập, mong
được mọi người rộng lượng
cảm thông và góp ư.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là vị thánh
gắn liền với giấc mơ Loan báo Tin mừng cho
người Việt, và cũng là vị thánh
được nâng niu giữa t́nh gia đ́nh và t́nh gia
tộc. Xin kư thác cho Chị loạt bài này như một
phương án mới, một con đường giản
dị để đến với anh chị em
lương dân và đưa họ đến với Chúa,
không c̣n phải là con đường lẻ loi của
từng người hay từng gia đ́nh nhưng là
một con đường hành động tập thể: con
đường ḍng họ, họ Nguyễn cho họ
Nguyễn, họ Lê cho họ Lê, họ Trần cho họ
Trần, họ nào truyền giáo cho họ nấy.
Một số đoạn trích lại từ quyển
"Về Với Cội Nguồn", Nxb PĐ 2012.
Độc giả nào muốn, có thể xem toàn văn
quyển sách tại:
http://gpquinhon.org/qn/news/nuoc-man/Ve-voi-coi-nguon-633/#.UhHDl9IvnqE
Mọi góp ư xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com.
Kính chúc quư độc giả và gia đ́nh luôn an vui
hạnh phúc trong Chúa.
Lm Trăng Thập
Tự Vơ Tá Khánh
Tự bản thân, Đạo Hiếu rất gần
với Đạo Chúa. Đang khi một số tôn giáo Á
Đông tin luân hồi, cho rằng con người chết
rồi đầu thai hóa kiếp thành loài này loài khác th́
Đạo Hiếu dạy rằng linh hồn Ông Bà Tổ
Tiên bất tử, linh hiển và gần gũi con cháu.
Đạo Hiếu và Đạo Chúa có chung một niềm
tin linh hồn bất tử, tiếc thay, đă gặp
một sự hiểu lầm suốt mấy thế
kỷ.
Hoàn
cảnh thế kỷ XVII đă khiến một số nhà
truyền giáo ngộ nhận, cho rằng việc thờ
cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo, trong đó
tổ tiên được coi như những vị
thần. Ngộ nhận này một phần là do chưa
nghiên cứu cặn kẽ:
- Nhiều vị tưởng rằng khi cúng lễ
gia tiên, gia chủ phải đọc những lời
thần bí rất tỉ mỉ. Thật ra, gia chủ không
tụng kinh (đọc lớn một công thức) cũng
không niệm kinh (đọc thầm) mà chỉ nói với
tổ tiên của ḿnh như một đứa con nói
với người cha hiện đang c̣n sống, trong ngôn
ngữ thông thường.
- Nhiều vị tưởng chữ "lễ"
trong lễ gia tiên có cái ư nghĩa nguyên thủy của nó là
"các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo". Thật
ra, chính Đức Khổng Tử đă giải thích
chữ "lễ" theo một nghĩa khác. Theo ngài, các
"lễ" hoặc các nghi thức chỉ là
phương tiện cho người quân tử dùng
để xử kỷ tiếp vật trong mỗi t́nh
huống cuộc sống. Chúng nêu rơ cách ứng xử
người ta phải có trong nhà, ngoài phố, ở
triều đ́nh, ở các lễ hội; chúng bộc lộ
ra bên ngoài những t́nh cảm bên trong mà người ta
cảm thấy trong t́nh huống này hoặc t́nh huống
nọ. Vậy, các nghi thức chỉ là những quy
phạm của phép xă giao, các quy tắc phép lịch sự mà
mục đích gần nhất là giáo hóa con người.
Đó là những quy luật của "lễ phép xă
hội", như chính Khổng Tử nói, khiến ngày qua
ngày người ta đến gần điều thiện
và tránh xa điều ác mà không ngờ. Nghi thức khi cúng gia
tiên cũng mang ư nghĩa ấy, chỉ là những lễ
phép bày tỏ ḷng kính trọng quư mến đối với
tổ tiên ḿnh.
- Lư do mạnh nhất đẩy Giáo Hội
đến chỗ chấp nhận theo một thái
độ ngờ vực đối với sự thờ
cúng tổ tiên, chính là v́ một số người tin
rằng vong hồn của những người chết
ở trong các bài vị, và người ta ghi rơ "đây là
nơi ở của hồn (ông A, bà B)", cách riêng là ở
trong tấm lụa đặt trước bài vị,
được gọi là "hồn bạch", thường
là tấm lụa đă phủ trên khuôn mặt người
hấp hối và được cho là hồn đă nhập
vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai lạc của
một số người. Theo những tin tưởng
chính thống của người Hoa cũng như
người Việt, sau khi chết, con người
được coi như đă vĩnh viễn rời
bỏ cơi đời này để an nghỉ ở cơi
"suối vàng". Tại các từ đường,
người ta chỉ giữ lại bài vị của
năm đời, c̣n các bài vị của những thế
hệ xưa được đem chôn. Nếu thật
người ta tin bài vị là nơi hồn nương
tựa th́ sẽ không chôn như thế, v́ không c̣n bài
vị, những hồn ấy sẽ ở đâu? Vả
lại, ngày nay, các gia đ́nh dễ dàng thay thế các bài
vị bằng những bức chân dung, cho thấy họ
không nghĩ rằng linh hồn các bậc tổ tiên ở
trong các bài vị. Nếu hồn không ở trong các bài
vị th́ vai tṛ của các bài vị ấy là ǵ? Dưới
con mắt của người Hoa cũng như là
người Việt, ít ra là của các nhà nho, các bài vị
chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc
nhở người sống tưởng nhớ những
người đă khuất.
Có những nhà truyền giáo cho rằng việc
thờ cúng Ông Bà là một tôn giáo nhưng lại có những
nhà truyền giáo khác khẳng định rằng
người Việt không bao giờ xem tổ tiên của
họ là "những vị thần", cũng không bao
giờ xem cha mẹ họ là "những vị thần
tương lai" (Chỉ một số nhỏ tiền
hiền ở các địa phương được các
triều vua phong thần làm "thành hoàng" của làng xă,
với cái nh́n tương tự như các thánh bổn
mạng trong Kitô giáo chứ không phải là những vị
thần đúng nghĩa). Đă đành là có bàn thờ dành
cho Tổ tiên và Tổ tiên là đối tượng của
một sự phụng tự nhưng phụng tự này
chẳng là ǵ khác hơn một phụng tự tưởng
nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó có
thể kết luận ngay rằng sự thờ cúng tổ
tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của
từ này (Chúng ta vẫn thường được nghe
trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông
bà chứ không theo đạo nào cả."). Hơn
nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này, người
xưa (cụ thể như Đức Khổng Tử)
nhắm thiết lập những mối liên hệ xác
thực giữa những người sống và những
người chết, củng cố sự liên đới
giữa các thế hệ và phát huy kỷ luật xă hội,
tức là chỉ v́ những mục tiêu xă hội và chính
trị chứ không hề có ư tưởng tôn giáo nào.
Ta cứ giả thiết như việc thờ cúng
này bắt đầu có ư nghĩa từ khi có loài
người, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai
chữ "thờ" ấy. Con cháu thờ ông bà, thế
hệ sau thờ thế hệ trước. C̣n người
đầu tiên của loài người thờ ai? Dĩ nhiên
họ chỉ thờ Thiên Chúa. Hai chữ thờ đó khác
nhau trời vực. Thờ Thiên Chúa là tâm t́nh của thụ
tạo lệ thuộc Tạo Hoá, tùng phục Ngài một
cách tuyệt đối và yêu mến Ngài với trọn t́nh
con. C̣n thờ tổ tiên là tưởng nhớ người
xưa và cố gắng không làm ô danh người xưa.
Thế nhưng trong thực tế, đối
với nhiều người, các nghi lễ dành cho tổ
tiên cũng dần dần mang thêm một ư nghĩa tôn giáo.
Người ta đi đến chỗ thờ tổ tiên
như thần thánh, và có khi dành cho tổ tiên một tâm t́nh
thờ phượng tuyệt đối như thờ
phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể
nào đi đôi với giáo lư Kitô giáo. Chỉ có một Thiên
Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ
bất cứ thụ tạo nào như Thiên Chúa
được.
Nghi lễ thờ cúng ông bà ở các thế kỷ
trước quả thật có bị lây nhiễm một
số tin tưởng sai lạc đáng ngại. Chẳng
hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của
cúng. Người ta sợ rằng không cúng tế th́ hồn
người chết sẽ đói khát, không đốt vàng
mă th́ hồn người chết không có tiền tiêu.
Những tin tưởng sai lạc như thế cũng
không thể đi đôi với giáo lư Kitô giáo.
Ngoài ra c̣n có những mê tín khác.
Các nhà truyền giáo đă tranh luận hết sức
nghiêm túc qua nhiều năm, một bên cho rằng những
sai lạc trên đây có thể điều chỉnh
được, một bên cho là khó ḷng thay đổi
được năo trạng của dân chúng. Cuối cùng,
để bảo đảm cho niềm tin của tín
hữu được tinh ṛng, Giáo Hội đă quyết
định rằng người Công Giáo chỉ
được tôn kính tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm,
chứ không được thờ cúng theo h́nh thức
cổ truyền địa phương. Giáo Hội
biết đây là một chọn lựa phải trả giá
đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền
giáo. Trước khi có quyết định ấy, số
người hưởng ứng Đạo Chúa tại
Việt Nam càng lúc càng đông, cả đến trong
triều đ́nh vua Lê cũng có nhiều người theo
Đạo. Việc cấm thờ cúng tổ tiên theo
lối cũ đă khiến người ta tẩy chay tôn
giáo mới, thậm chí đă thành một trong những lư do
biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn,
nhà Nguyễn và chiến dịch Văn Thân. Đă hẳn
việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ
nhận nhưng dù sao nó cũng cho thấy đức tin
Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt
đến mức nào.
Măi đến thế kỷ 20, khi Đạo Hiếu
không c̣n bị ngộ nhận là một tôn giáo và những
tin tưởng sai lạc cũng không c̣n phải là
chuyện chung của quảng đại quần chúng,
năm 1964, Toà Thánh đă chấp thuận cho người
Công Giáo Việt Nam được thờ cúng ông bà theo
lối xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám Mục
Việt
Sau phần đầu nhắc lại mấy nguyên
tắc về thái độ của Giáo Hội đối
với nền văn hoá và truyền thống của dân
tộc, bản thông cáo nói đến thể thức áp
dụng Huấn thị "Plane compertum est" đă
được Toà Thánh đă đề ra cho Giáo hội
tại Trung Hoa ngày 08-12-1939. Nguyên
văn thông cáo:
Ngày 20-10-1964, Ṭa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đă
chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục
Việt
Để hiểu rơ tinh thần Giáo Hội trong
việc chấp thuận này, và để có những
chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng,
Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy
điểm sau đây:
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết
thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập,
để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng
Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên
của Giáo Hội là giúp sao cho con người
được nên h́nh ảnh đích thực của Thiên
Chúa và được trung thực với sứ mệnh
Kitô hữu của ḿnh, để đạt cứu cánh sau
hết là hạnh phúc đời đời. Công tŕnh đó
được thực hiện trong nội khảm của
mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện
cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt
của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ
tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày
nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm.
Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt
những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành
của các dân tộc. Âu cũng v́ bản tính nhân loại, dù
c̣n mang dấu vết sự sa ngă của tổ tông, song
vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự
nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu,
dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ
đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích
thực. Cũng v́ vậy mà Giáo Hội không bao giờ
miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như
nghệ thuật hoặc văn hóa của người không
Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đă từng góp phần
thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến
chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội
đă thánh hóa những phong tục cũng như những
truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội
cũng đă nhiều lần đem nghi lễ của
miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng
vụ của ḿnh, sau khi đă tu chỉnh cả tinh
thần và h́nh thức, để ghi nhớ mầu
nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các
vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp
Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn
tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum,
28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo
cũng chủ trương một lập trường rơ
rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các
nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào
cũng như tôn giáo nào, và lănh đạm để mặc
ai muốn hay không muốn t́m xem Thiên Chúa có mạc khải
một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa
được nhận biết, kính mến và phụng
thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận
một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân
lư của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp
Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận
điều ǵ vốn là chân lư và thánh thiện của
bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền
Đức Kitô là “đường đi, là chân lư và là
nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm ḥa
với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ư cứu xét
những hành động và sinh hoạt, những luật
pháp và lư thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt
với những điểm Giáo Hội đề ra, song
vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái
chân lư hằng soi sáng mọi người. V́ thế, Giáo
Hội khuyên giục con cái ḿnh tuy vẫn phải giữ
đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm
thế nào để nắm giữ và phát triển những
của cải thiêng liêng, luân lư và những giá trị xă hội,
văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ
những buổi hội thảo, sự học hỏi và
sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo
này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo
ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội
được đúc kết trong tư tưởng
của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công
đồng Vatican, đă giải thích lư do của quyết
định Ṭa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane
compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo
tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại
Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đă cho công
bố thông cáo này.
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại
Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay v́ sự tiếp
xúc với bên ngoài và v́ tâm t́nh, tập quán đă thay
đổi nhiều, nên chỉ c̣n là những phương
cách biểu lộ ḷng hiếu thảo tôn kính đối
với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ.
Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách
thế tục, lịch sự và xă giao đó, Giáo Hội
Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà c̣n mong
muốn và khuyến khích cho nó được diễn
tả bằng những cử chỉ riêng biệt của
mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường
hợp.
V́ thế, những cử chỉ, thái độ và
nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ư
nghĩa thế tục rơ ràng là để tỏ tinh
thần ái quốc, ḷng hiếu thảo, tôn kính hoặc
tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, h́nh, dựng
tượng, nghiêng ḿnh bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ,
giỗ...) th́ được thi hành và tham dự cách chủ
động.
2) Trái lại, v́ có nhiệm vụ bảo vệ
đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo
Hội không thể chấp nhận cho người giáo
hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó,
hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lư ḿnh
dạy.
V́ thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù
hợp với giáo lư Công Giáo (như bất cứ lễ
nghi nào biểu lộ ḷng phục tùng và sự lệ
thuộc của ḿnh đối với một thụ
tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những
việc dị đoan rơ rệt (như đốt vàng mă),
hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc
tế tự... th́ giáo hữu không được thi hành và
tham dự. Trong trường hợp bất đắc
dĩ, chỉ được hiện diện một cách
thụ động như đă ấn định trong giáo
luật, khoản 1258 (GL 1917).
3) Đối với những việc mà không rơ là
thế tục hay tôn giáo, th́ phải dựa theo nguyên
tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư
luận dân chúng địa phương không coi như
sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo
(ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm t́nh tự
nhiên, th́ được coi như không trái với
đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham
dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, th́
có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc
ấy: nếu cần, th́ phải giải thích chủ ư
của ḿnh một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp
thời. Sự tham dự cũng chỉ được có
tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần
phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn
cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi
người liên hệ không được theo ư riêng ḿnh, mà
sẽ phán đoán theo chỉ thị của Ṭa Thánh và bàn
hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quư cha phổ biến rộng răi và giải
thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà
thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em
giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành
cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học
tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các
khóa huấn luyện.
Làm tại Đà
Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục
Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín
hữu không được phép tham dự cách chủ
động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham
dự một phần trong các nghi thức của
người không Công giáo.
§2 Có
thể chước chuẩn cho người tín hữu
hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính
cách bề ngoài v́ trách nhiệm dân sự hoặc v́ danh
tiếng, bởi có lư do quan trọng, trường hợp
nghi ngờ đă được Giám mục xác nhận.
Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám
cưới và những cuộc lễ long trọng
tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm
gương mù và sinh lợi.
Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội
thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha
Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận
cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những
quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về
Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông
Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng
chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận
định: Những cử chỉ thái độ, lễ
nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xă giao
để tỏ ḷng hiếu thảo, tôn kính và tưởng
niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên
được thi hành và tham dự cách chủ động”
(Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).
1. Bàn
thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên
được đặt dưới bàn thờ Chúa trong
gia đ́nh, miễn là trên bàn thờ không bày biện
điều ǵ mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến
trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ,
giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ
thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép
làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật”
được “cúng giỗ” trong gia đ́nh theo phong tục
địa phương miễn là loại bỏ những
ǵ là dị đoan mê tín, như đốt vàng mă, và giảm
thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu
dương đúng ư nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà,
như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ
Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường
thờ Tổ tiên, v́ đó là nghi lễ tỏ ḷng biết
ơn, hiếu kính tŕnh diện với Ông Bà.
5. Trong tang lễ được vái lạy
trước thi hài người quá cố, đốt
hương vái theo phong tục địa phương
để tỏ ḷng cung kính người đă khuất
cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông
hương nghiêng ḿnh trước thi hài người quá
cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị
thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đ́nh làng,
để tỏ ḷng cung kính biết ơn những vị
mà theo lịch sử đă có công với dân tộc hoặc
là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như
đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây
sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua
những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…
Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho
hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng
liệt sĩ theo phong tục địa phương, là
một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo
làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính
liên quan đến tín ngưỡng, v́ chính Chúa cũng
truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới
răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại
Nha Trang, ngày 14.11.1974
Kư
tên:
- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế
- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ
- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn
Lắm người,
không những ngoài Công giáo cả không ít tín hữu Công giáo
hiểu quan điểm mới của Giáo hội Công giáo
cách quá đơn giản, tưởng rằng qua việc
cho phép tái lập bàn thờ gia tiên, cúng giỗ và nhang
đèn,... Giáo hội cũng chấp nhận luôn cả
những tiểu tiết của dị đoan mê tín. Đây
là một điểm hết sức quan trọng cần xác
định ngay từ đầu để tránh ngộ
nhận.
Quan điểm mới
của Giáo hội Công giáo, được khẳng
định vào năm 1964-1965, dựa trên bước
tiến tích cực về phong hóa, "những tin
tưởng sai lạc kia cũng không c̣n phải là
chuyện chung của quảng đại quần chúng",
tuy nhiên sang đầu thế kỷ 21, diễn biến
thực tế lại rất đáng lo ngại,
người tín hữu Công giáo cần biết nhận
định và chọn lựa sáng suốt.
Những năm 1930,
cuộc vận động của các tác giả Tự
Lực Văn Đoàn trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay cũng
như qua các tiểu thuyết của họ, đă giúp thay
đổi được năo trạng quần chúng, phá
đổ được nhiều tệ đoan xă hội,
cách riêng là những mê tín về phong thủy, phương
hướng, ngày giờ, đồng bóng. Tiếc thay, vài
chục năm trở lại đây, do chạy theo lợi
nhuận du lịch, các nơi đă đua nhau phục
hồi các lễ hội dân gian cách thiếu chọn
lọc, mở đường cho nạn mê tín lại lan
tràn cách tệ hại.
Mở Google, gơ "mê
tín", ta gặp hằng ngàn bài lên tiếng về một
tệ nạn mới của xă hội: cầu cơ, xin
keo, xin xăm, coi ngày giờ, xem hướng, đốt
vàng mă, ông địa, thần tài... Người ta dựng
nên cả những văn pḥng, những trung tâm nghiên cứu
khoa học về cơi âm, để hiện đại hóa và
hợp pháp hóa việc buôn thần bán thánh. Có cả
những bậc trí thức không vững lập
trường, hoặc v́ ham lợi, ham danh, đua đ̣i
hoặc v́ ham vui đă chạy theo những sự mê tín
đáng tiếc. Truyền thông đại chúng đă có
nhiều đợt lên tiếng vạch trần những
chuyện vớ vẩn ấy. Những người
nhờ một nhà ngoại cảm t́m mộ rồi kiểm
tra chéo bằng một nhà ngoại cảm khác đều
gặp kết quả trớ trêu dở khóc dở
cười. Những anh chị em ngoài Kitô giáo giữ
vững lương tri đều nhất quyết không t́m
thông tin về quá khứ từ bất cứ h́nh thức
đồng cốt nào, v́ họ thấy trước sẽ
lâm vào t́nh trạng khó xử: tin cũng không được
mà chẳng tin cũng không được.
Do thiếu ánh sáng
mặc khải, người ta không biết rằng kẻ
thù của loài người là ma quỷ luôn xúi giục
mọi người mê theo của cải vật chất. Ma
quỷ đầy ghen tương, nó đă đánh mất
hạnh phúc đời đời nên quyết không
để cho con người hưởng được
hạnh phúc ấy. Mọi hoạt động của nó
đều nhằm lôi kéo con người ĺa xa nguồn
cội là Thiên Chúa và đánh mất hạnh phúc đích
thật trong Ngài. Nó quá rơ không ǵ có thể mê hoặc ḷng
người cho bằng lợi (x. Mt 6.19-21.25-34; 19,23-26) và
danh (x. Lc 14,7-11; Ga 5,44). Bài học quanh ta sờ sờ
trước mắt, biết bao người v́ chút tư
lợi và hư danh mà bán rẻ lương tâm, quên mất
quyền lợi của quốc gia dân tộc, biết bao
kẻ giàu lên một chút là cậy của khinh người,
coi thường cả trời đất, biết bao gia
đ́nh tan ră v́ tiền bạc, biết bao tổ chức
tốt lành bỗng chốc một sáng một chiều ḷng
người ly tán chỉ v́ tiền bạc của
cải...
Như thế, trong
cái nh́n của người Công giáo, đàng sau những
biểu hiện xă hội c̣n có cả một thế
lực vô h́nh là quỷ dữ lừa dối (x. Ga 8,44). Là những
thụ tạo vô h́nh, nó lừa gạt những kẻ
nhẹ dạ dễ như bỡn. Nó mặc lốt
thần ánh sáng (x. 2Cr 11,14), lợi dụng đục
nước thả câu, nó cung cấp những kết
quả "thần diệu" khiến người ta tin
theo nườm nượp. Kinh nghiệm cho thấy, không
riêng lănh vực này mà trong mọi lănh vực, kẻ thù
của loài người là ma quỷ biến báo đủ
cách, dùng đủ thứ mánh lới chỉ cốt
để giành giật linh hồn mọi người
khỏi t́nh thương nhân hậu và đ̣i hỏi của
Thiên Chúa Tạo Hóa là Cha Chung giàu ḷng thương xót. Chính nó
đă từ chối t́nh thương Thiên Chúa và đánh
mất hạnh phúc đời đời cho nên ghen tị
không muốn để con người được
hưởng hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Mục đích
cuối cùng của nó là lừa gạt để con
người tự đánh mất hạnh phúc đời
đời.
Đây là điều
hết sức quan trọng, can hệ đến hạnh
phúc đời đời của chính ḿnh. Người tín
hữu cần đề cao cảnh giác để khỏi
bị cuốn vào những thực hành đi ngược
với đức tin chân chính và để khỏi làm cho
người ngoài một lần nữa hiểu lầm quan
điểm của Giáo hội Chúa. Người Công giáo tôn
trọng những chọn lựa của các anh chị em
ngoài Công giáo, nhưng tôn trọng không đồng nghĩa
với tán thành... Không nên có những phê b́nh kết án gay
gắt nhưng cũng không dễ dăi hùa theo. Cần
khẳng định rằng không phải hễ cứ có
một số người có học chạy theo là mê tín
trở thành chuyện đáng tin.
Người Công giáo
cần nhớ lại Giáo hội Việt Nam đă phải
trả giá đắt như thế nào để giữ
vững đức tin cho tín hữu, thà bị hiểu lầm
rằng theo đạo là bỏ ông bỏ bà c̣n hơn là
để cho tín hữu rơi vào lầm lạc mê tín.
Cần nhớ
rằng ma quỷ có bề dày kinh nghiệm bằng lịch
sử loài người và đang thực hiện một
công cuộc xuyên lịch sử: đạp đổ ḷng
tin vào Thiên Chúa. Để dạy người ta tin vơ
thờ quấy thay v́ tin thờ Thiên Chúa, nó tùy cơ ứng
biến, tận dụng mọi cách thế, mọi cơ
hội và hoàn cảnh, chỉ cốt sao lung lạc
được đức tin người đời,
dẫn dụ họ tin bất cứ cái ǵ cũng
được, miễn là đừng tin vào Thiên Chúa chân
thật. Ở một thời mà đêm về thôn quê ch́m trong
tăm tối, nó hiện h́nh quấy phá theo một kế
hoạch có sẵn, gây sợ hăi để khiến
người ta dần dần h́nh thành những tin
tưởng lệch lạc có hệ thống. Khi nông thôn
được điện khí hóa, nó nhảy vào phim ảnh,
TV, video. Đến thời kỹ thuật số nó
"phục vụ" trong điện thoại di
động và internet. Ở mọi thời, nó t́m mọi
cách khiến người ta tham lam, si mê, thù hận...
Sau bao nhiêu năm
chiến tranh, thiên hạ có nhu cầu t́m mộ thân nhân, nó
mau mắn phục vụ bằng cách khoác áo hồn
người chết, giả dạng tổ tiên hiện
về mách bảo, vv.. Nó xúi giục người ta phá thai
rồi lại mượn danh oan hồn những thai nhi
bị sát hại để gây âu lo, tuyệt vọng.
Ma quỷ lộng
giả thành chân, dùng thủ thuật pha trộn 50%
điều sai với 50% điều đúng, có khi 90%
đúng chỉ cần 10% sai cũng đủ dần
dần dẫn người ta vào sai lạc.
Với những
chạy theo chuyện gọi hồn người chết,
nó cung cấp những chi tiết gây tin tưởng:
Giọng nói y hệt - lịch sự và thân thiện.
Thế nhưng, đă là quỷ th́ chuyện nói giống
giọng người này người nọ hoặc cung
cấp những chi tiết ngoạn mục về vị
trí thi hài người đă chết c̣n dễ hơn trẻ
con chơi game. Để thu hút ḷng tin của người
lành, nó c̣n đóng vai những bậc tiền hiền
hoặc danh nhân lịch sử rất lịch sự, thân
thiện và đầy nhân ái. Thậm chí, nó c̣n giả
dạng Cha Trời giáng cơ dạy bảo những
điều có vẻ lành thánh khiến thiên hạ bị
lừa.
Muốn dựng
lại quá khứ, ta cần kiên nhẫn t́m ṭi các chứng
liệu bằng văn bản, bi kư và các bút tích khác, cần
đầu tư cho các bạn trẻ học chuyên sâu
về Hán Nôm và lịch sử, tuyệt đối không
chạy theo những chuyện vu vơ nhảm nhí. Người
tín hữu Chúa thà chấp nhận vất vả và kiên tŕ
để biết đúng sự thật hơn là chạy
theo những cách giải quyết dễ dăi để
rơi vào những giả dối lầm lạc do ma
quỷ lừa gạt. Bởi v́, chỉ có sự thật
mới đem lại tự do, b́nh an và hiệp nhất.
Sau khi đưa lên
mạng bài số 16 trong loạt bài “50 năm thờ cúng
Tổ Tiên – loan Tin mừng cho ḍng họ”, tôi nhận
được bài viết của tác giả Mạc
Tường tựa đề “Như gấm thêm hoa”, trùng
khít với những điều tôi đang viết. Xin
được giới thiệu cùng quí độc giả.
Thấm thoát
đã gần nửa thế kỷ từ
ngày Ṭa Thánh chấp thuận cho giáo dân Việt Nam
được thờ cúng ông bà, tổ tiên
theo cung cách cổ truyền, miễn là đừng
thực hiện những hành vi mang tính
dị đoan. Giáo Hội Công giáo Việt Nam
cũng đã cổ võ khuyến khích
thực hiện việc thờ cúng ông bà
tổ tiên theo tinh thần trên. Riêng Giáo Phận Quy
Nhơn, gần đây các bài giáo huấn số 32
và 34 của lịch phụng vụ năm C
được rao đọc trước các
thánh lễ Chúa Nhật đã nhấn mạnh
tính quan trọng và cấp thiết trong việc
thiết lập bàn thờ gia tiên, thực
hiện các nghi thức lễ bái, nhất
là những dịp giỗ, chạp, lễ tết,
để nhờ đó có thể sớm
xóa tan được thành kiến “theo
đạo bỏ ông bà”.
Sau gần nửa
thế kỷ, được khuyến khích hòa
nhập với cộng đồng dân tộc, hầu
xóa sạch những hiểu lầm và hàn
gắn những khoảng cách không đáng
có giữa người Công giáo và anh
chị em lương dân, thử hỏi chúng ta đã
hòa nhập đến đâu?
Thật đau
lòng và đáng lo ngại! Hiện nay, trong các
gia đ́nh Công giáo, một số đă có bàn
thờ gia tiên, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bàn
thờ được bài trí một cách
đàng hoàng, nghiêm cẩn như ở các
gia đình lương dân?
Bước vào nhà
người Công giáo, trên bàn thờ Chúa
cũng như trên bàn thờ gia tiên, thật
khó mà tìm thấy một cặp nến màu đỏ
như ở các gia đình lương dân.
Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải
dùng nến trắng trong khi nến đỏ
đã được dùng rất lâu ở
Việt Nam trước khi có những cây
nến màu trắng lạ mắt có
nguồn gốc từ Châu Âu?
Trong những
dịp lễ lớn chúng ta dâng lên bàn
thờ Thiên Chúa, bàn thờ gia tiên
những thức ăn, thức uống,
bánh mứt, rượu bia, nước
ngọt… Nhưng liệu chúng ta có quen với
việc dâng lên một mâm cơm cúng như anh chị em
lương dân quen làm không?
Khi trong gia đình
Công giáo có tang sự, chúng ta
thường rước đoàn kèn Tây
(“rất tốn kém và thổi những bản
nhạc đời vô tội vạ”, như một Cha
sở đã nói).
Chúng ta có đủ can đảm rước
một đoàn nhạc bát âm, với
những nhạc cụ dân tộc (chỉ diễn
những bản nhạc thuộc về tang lễ)
như anh chị em lương dân thường làm
không? Còn bao nhiêu điều tưởng
chừng như nhỏ nhặt, thực ra
lại là hố sâu ngăn cách, khó bề
gần gũi giữa người Công giáo
và anh chị em lương dân.
Nếu chúng ta
không quyết liệt về nguồn, không triệt
để canh tân, loại bỏ những cách
biệt, thiết nghĩ việc xóa định
kiến “theo đạo bỏ ông bà” chắc
chắn còn xa, xa vời lắm!
Mong rằng
tất cả nọi người Công giáo Việt
Nam ý thức được tầm quan
trọng và cơ hội mà Hội Thánh đã
trao cho chúng ta. Không lý gì chỉ vì màu
của cây nến; không lý gì chỉ vì chút
ngại ngần trước mâm cơm cúng; không
lý gì chỉ vì không quen với dàn
nhạc bát âm, và chỉ v́ những tiểu
tiết tương tự mà công việc truyền giáo
cứ phải măi măi bị ngáng trở!
Những hố
sâu, rào cản cần được dỡ
bỏ, san bằng để mọi người
Việt Nam dễ cảm nhận Đạo Công giáo phù
hợp với tấm ḷng, tín ngưỡng,
phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam.
Được như thế, trong một viễn cảnh
không xa ta có thể thấy hình ảnh các
thợ gặt rộn rã với những
bó lúa vàng trĩu nặng trên tay trên
khắp cánh đồng truyền giáo Việt
Nam bao la bát ngát. Và ngày ấy Giáo
Hội Công giáo Việt Nam sẽ “như gấm thêm
hoa”.
MẠC
TƯỜNG
Thông cáo 1965 kết
thúc: “Yêu cầu quư cha phổ biến rộng răi và giải
thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà
thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo
hữu mà cho cả người ngoài Công giáo. Các vị
phụ trách Công giáo Tiến hành cũng phải lấy thông
cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn
trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.
Nói chung, các cha
đều có tŕnh bày trên ṭa giảng, cả trong những
dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị
hôn nhân. Cũng có những người muốn thúc
đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc
tiến nhanh nhưng h́nh như không mấy ai hưởng
ứng. Bài viết của anh Mạc Tường tiêu
biểu cho nỗi âu lo thao thức của những
người quan tâm tới việc khai mở con
đường loan Tin mừng qua việc thờ cúng
Tổ Tiên. Phải nói rằng, sau 50 năm, nếu
để khai báo thành quả, hầu như chúng ta chưa
làm được ǵ mấy. Lắm người bảo
việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est” cách
nửa vời càng dễ gây phản tác dụng v́ dễ
khiến người lương nghĩ rằng
người Công giáo không thật ḷng trong việc này.
Sau những năm
tích cực nhập cuộc tôi nghĩ sự tŕ trệ có
hai lư do. Ngoài lư do tự nhiên là thiếu tài liệu
hướng dẫn cụ thể, hẳn c̣n có một lư do
siêu nhiên khá bất ngờ là linh tính đức tin của
người tín hữu chưa cho phép họ mạnh dạn
tiến xa. Ở chia sẻ sau, tôi sẽ nói tới lư do siêu
nhiên, c̣n ở đây xin tŕnh bày lư do tự nhiên.
Thật ra, cho tới
nay chưa có tài liệu hướng dẫn thực hành
chính thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai
bản thông cáo 1965 và 1974. Nhiều giáo dân muốn áp dụng
nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ, không rơ
phải làm ǵ trong thực tế.
Đi t́m hiểu cách
thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm
nhận ra rằng các truyền thống đạo hiếu
được duy tŕ và phổ cập đồng bộ
trong dân chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn
của một quyển sách mỏng tên là “Thọ Mai gia
lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng
có lẽ quyển Thọ Mai thịnh hành nhất và có
ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho
việc áp dụng thông cáo của Hội Đồng Giám
Mục đi sâu vào tận các gia đ́nh, cũng cần có
một quyển “Gia lễ Công giáo” với những chỉ
dẫn cặn kẽ.
Đang khi tôi suy
nghĩ t́m cách thực hiện th́ Đức Cha Phaolô
Nguyễn Văn Ḥa, giám mục Nha Trang, sau khi dự
Thượng hội đồng Giám mục về gia
đ́nh, đă giao cho tôi dịch tông huấn hậu
Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi dịch xong
và tŕnh cho ngài th́ ngài bảo làm một sưu tập
những kinh theo tinh thần mới để dùng cho các gia
đ́nh. Yêu cầu ấy của ngài cho tôi hiểu ra
rằng quyển “Gia lễ Công giáo” không ǵ khác hơn là
một quyển “Kinh nguyện Gia đ́nh”, với những
đầy đủ các chỉ dẫn cần thiết cho
các gia đ́nh, trong đó có những chỉ dẫn về
tang lễ, kỵ giỗ và việc thờ cúng Ông Bà. Tôi
đúc kết một bản thảo, đem in lụa dùng
thử rồi sửa đi sửa lại. Khoảng
năm 1986 th́ có được ấn bản mới.
Đức Cha Phaolô duyệt qua và cho phép dùng. Sau đó
cuối năm 1997 ngài cho imprimatur và Ṭa Giám mục Nha Trang
đă chính thức xin phép xuất bản và in lại
nhiều lần.
Quyển sách gồm
hai phần. Phần đầu là sưu tập một
số các kinh cũ, kinh mới, bài hát, thánh vịnh, lời
nguyện. Phần hai là những chương tŕnh giờ
kinh khác nhau trong gia đ́nh. Trong đó, mục thứ năm
là “Những dịp đặc biệt trong gia đ́nh”,
với những hướng dẫn về cúng lễ gia
tiên, dọn tất niên, tưởng nhớ gia tiên dịp
tết nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên,
lễ bổn mạng một người trong gia đ́nh,
giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật,
nghi thức lễ cưới ở gia đ́nh, giáp năm
ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà. Mục thứ
sáu là chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho
người hấp hối. Mục thứ bảy là
“Cầu nguyện cho tín hữu đă qua đời”,
với những hướng dẫn về viếng thi hài,
canh thức cầu nguyện tại tang gia, nhập quan,
động quan và di quan, trước khi hạ huyệt,
nghi thức hoả táng và nghi thức tiếp nhận di
cốt về gia đ́nh. Mỗi mục nhỏ ấy
đều gồm những chỉ dẫn thực hành
(giống như các “lời bảo” ngày xưa) và những
kinh hoặc bài hát thích hợp (lấy ở phần
đầu của quyển sách). Xin nêu mục nhỏ
thứ nhất làm minh họa.
Thiên Chúa đă tự
xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của
người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết các bậc
tiền nhân nào đă thực sự “sống khôn thác thiêng”
đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở
trần gian kết hợp với họ trong mầu
nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia
tiên tổ phụ, người công giáo không làm một
sự thờ phượng ở ngoài sự thờ
phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để
nhờ đó mà thêm ḷng biết ơn và kính mến Thiên Chúa
là nguồn mọi t́nh phụ tử trên trời
dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ
đến các tổ tiên theo huyết thống, người
công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong
đức tin.
Người Việt
Mỗi gia đ́nh nên
có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đă có bàn
thờ th́ nhớ thắp hương, đừng
để hương tàn khói lạnh.
H́nh thức sơ
đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm,
mỗi tối, mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi
lần đi đâu về, ta thắp một cây nhang cắm
lên bàn thờ và thinh lặng cầu nguyện một phút.
Ngày tết ngày giỗ
nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh
những chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không
hợp t́nh hợp lư. Về h́nh thức, chỉ cốt sao
biểu lộ được tấm ḷng và giúp các cháu
nhỏ học được ḷng biết ơn tổ tiên
và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.
Khi cúng lễ, cần
nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin công giáo
dạy ta biết rằng người quá cố không
cần đến thức ăn vật chất, các lễ
vật chỉ nhằm bày tỏ ḷng biết ơn kính
nhớ mà thôi.
Lễ gia tiên
thường do vị trưởng tộc hoặc
người cha trong gia đ́nh chủ lễ. Nếu vị
này vắng mặt th́ vợ hoặc con trai hoặc con dâu
trưởng chủ lễ.
Chương tŕnh
đơn giản như sau:
1. Thắp
hương đèn trên bàn thờ
2. Dấu thánh giá
3. Kinh Lạy Cha
4. Tạ ơn Chúa:
Xướng: Ta hăy tạ ơn
Thiên Chúa đă đưa các bậc tổ tiên ta về
với Ngài.
Đáp:
A. Chúa trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
Và nhớ măi lời xưa giao ước
B. Chúa
đă thề với tổ phụ Ab-ra-ham
Rằng sẽ giải phóng ta khỏi địch thù
5. Cầu cho các tín hữu đă qua đời:
X. Ta hăy cầu
nguyện cho các linh hồn ở luyện ngục
Đ.
A. Chúng con cậy v́ Danh Chúa nhân từ
Cho các đẳng linh
hồn được lên chốn nghỉ ngơi
B. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời
sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
6. Lời nguyện với tổ tiên (do vị
chủ lễ đọc):
Kính
lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại hai
bên, cùng các bác, các chú, thím, cô d́, cậu mợ và mọi anh
chị em đă qua đời.
Hôm nay
nhân ngày ... (nhân ngày đầu năm, cuối năm,
hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin
thắp nén hương bày tỏ ḷng tưởng nhớ và
biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng
con được b́nh an mạnh khoẻ, được
hoà thuận êm ấm và được mọi điều
tốt đẹp như ư Thiên Chúa muốn ...
(Vị chủ lễ
vái 4 vái. Những người hiện diện tuần
tự tiến lên vái mỗi người 4 vái và cầu
nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây
kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát
một bài tạ ơn để kết thúc).
Đó là mục
thứ 18 trong phần II của quyển “Kinh Nguyện Gia
Đ́nh” và cũng là mở đầu cho phần “Gia lễ
Công giáo”. Có thể một số độc giả đă
từng sử dụng quyển sách và biết phần
hướng dẫn ở các mục khác tương tự.
Quư độc giả nào chưa biết quyển sách, xin
tải xuống từ địa chỉ:
http://gpquinhon.org/qn/download/tu-duc/Kinh-nguyen-gia-dinh/
Đóng góp của tôi
trong quyển sách chỉ mới là một cố gắng cá
nhân. Tôi đă cố gắng bám sát những trường
hợp có thật và đa dạng để xây dựng các
lời chỉ dẫn cho đúng thực tế. Dù vậy,
c̣n rất nhiều thiếu sót.
Đă hơn 25
năm. Cả những bài hát trong đó đă nhiều bài
bị đào thải. Nay chuẩn bị mừng 50 năm
áp dụng huấn thị Plane compertum est, Ban Mục vụ
Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đang duyệt lại toàn
bộ để phát hành với tựa đề mới là
SÁCH GIA LỄ CÔNG GIÁO.
Xin được
tŕnh bày lư do thứ hai, lư do siêu nhiên, khiến việc áp dụng huấn thị
Plane compertum est trong 50 năm qua tiến rất chậm. Suy
cho kỹ, chúng ta sẽ phải cảm tạ Thiên Chúa vô
cùng v́ sự an bài kỳ diệu Ngài đă làm cho Giáo hội
tại Việt Nam trong lănh vực này, nơi cuộc tranh
luận 1610-1742 xưa kia cũng như nơi sự tŕ
trệ 50 năm qua. Măi đến hôm nay, cả những
linh mục đă đọc kỹ hai thông cáo 1965 và 1974
vẫn thấy ngập ngừng liệu có nên khuyến
khích giáo dân bày đồ cúng lên bàn thờ với các
thức ăn như xôi, chè, thịt, cá. Sự ngập
ngừng ấy không phải không có lư do. Vậy đâu là
trở ngại và đâu là cách giải quyết?
Sau hơn 20 năm
tích cực nhập cuộc, nghe ngóng, xem xét, suy tư và sáng
tạo thể nghiệm, tôi nhận ra rằng nơi
sự dè dặt ấy có ơn của Chúa Thánh Thần rất
rơ. Sự dè dặt ấy có thể nói là một minh họa
sống động hiếm hoi cho trường hợp
thứ ba của ơn vô ngộ là cảm thức
đức tin của Dân Chúa mà cha Phi Khanh Vương
Đ́nh Khởi gọi dịch rất chính xác là “linh tính đức
tin” của các tín hữu (x. Sách Giáo Lư của Hội Thánh
Công Giáo, số 889). Mặc dù hai thông cáo 1965 và 1974 mở rộng
cửa, cả các linh mục lẫn giáo dân đều
cảm thấy có cái ǵ đó chưa ổn. Người ta
linh cảm rằng ở đây, giữa ư nghĩa dấu
chỉ tượng trưng và những ngộ nhận
dẫn đến mê tín, ranh giới thật mong manh.
Đang khi có những tác giả mới như Khải Chính
Phạm Kim Thư (Nguyên tắc cúng, khấn, vái và lạy –
dactrung.net) diễn giải các chi tiết một cách trong
sáng, gần gũi với cách nh́n của Giáo hội Công giáo
th́ các sách nghi lễ hiện hành kết thúc các văn tế
với lời mời tiền nhân về “phối
hưởng” các lễ phẩm (ví dụ trong quyển
“Tập Văn tế mẫu Cúng Gia Tiên”, Thái Vy biên soạn,
Nxb Thanh Hóa,2007). Các bài văn tế hiện dùng
thường dịch lại sát các bản văn xưa và
cũng mang ư nghĩa mời người xưa về
hưởng các lễ phẩm. Nói tắt, vẫn c̣n
một tỉ lệ lớn bà con lương dân nghĩ
rằng Ông Bà Tổ Tiên về hưởng của cúng.
Có nh́n vào thực
tế ấy, ta mới hiểu được tính nghiêm túc
của cuộc tranh luận kéo dài cả 130 năm từ
sau cái chết của cha Matthieu Ricci (1610) và của huấn
thị Ex quo singulari. Thực tế ấy cũng giúp chúng
ta thông cảm với lập trường dứt khoát và
cứng rắn của anh em Tin lành trong vấn đề
“ăn của cúng”.
Những chi tiết
văn hóa khi hội nhập vào cuộc sống
người Kitô hữu phải được mặc
lấy một ư nghĩa mới, nhưng đó là ư nghĩa
nào? Ở đây, không thể xuề x̣a hay nhập nhằng
thỏa hiệp.
Thông cáo 1965 nói:
“nếu cần, th́ phải giải thích chủ ư của
ḿnh một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời”, và
thông cáo 1974 nói nếu “sợ có sự hiểu lầm nên
khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích
lệ, thông cảm…”. Thật ra đó là việc
vượt quá khả năng người giáo dân b́nh
thường. Ngay cả khi họ vẫn nắm vững và
biết cách giải thích, khung cảnh thực tế
của sự việc thường rất tế nhị,
những giải thích như thế sẽ thiếu tự
nhiên, lắm khi c̣n vô t́nh gây những căng thẳng không
đáng có.
Để giúp vượt khỏi những ngập ngừng
dè dặt kia cũng như những trường hợp khó
xử này, cần có một quyển gia lễ hướng
dẫn cặn kẽ cho việc áp dụng huấn thị
Plane compertum est, để qua đó cả người giáo
lẫn người lương đều có thể
hiểu cách dễ dàng là Giáo hội muốn dạy ǵ. Phiên
bản “Kinh nguyện gia đ́nh” 1986 của chúng tôi cũng
chỉ mới nêu một số đề xuất mang tính
ḍ dẫm. Sau hơn 25 năm thể nghiệm, chúng tôi
thấy vấn đề khá rơ. Với phiên bản “Sách Gia
lễ Công giáo” sắp ấn hành, chúng tôi xin được
mạnh dạn đề xuất một bản văn
“nghi thức cúng giỗ” như sau. Rất mong
được độc giả bốn phương, Công
giáo cũng như ngoài Công giáo, góp ư hoàn chỉnh. Xin gửi
về: tinmunggiesu@gmail.com
Việc cầu nguyện
trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ
Chúa đă giải thoát các bậc tổ tiên, đưa
về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin
ơn giải thoát cho những người đang cần
được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn.
Đối với những người mới qua
đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu
hồn, c̣n đối với những người đă
qua đời rất lâu năm, ta có thể chú trọng
hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa nhân
từ đă thứ tha và giải thoát. Cần nhớ
rằng chúng ta đang sống trong một thế giới
lệ thuộc không gian và thời gian, c̣n tiền nhân đă
khuất đang thuộc về một thế giới
vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ư
niệm “rồi” và “chưa” theo cách ta quen suy nghĩ ở
đời này đem áp dụng cho thế giới
đời sau không khỏi có phần khập khiễng. Nói
đến đời sau là ta đang chạm đến
những mầu nhiệm vượt khỏi mọi ư
niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ
rằng ngay cả những vị đă chết mà không
chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin rằng Thiên
Chúa nhân từ và đầy quyền năng đă có cách
cứu vớt họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.
Cũng đừng
quên rằng ta có thể cầu nguyện với những
bậc tổ tiên đang được hưởng
hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể
xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi c̣n sống,
họ đă yêu thương cầu nguyện cho ta, th́ khi
đă về với Chúa, họ c̣n yêu thương ta hơn
và lời cầu nguyện của họ c̣n hữu hiệu
hơn.
Bữa ăn giỗ
là để phát huy t́nh cảm gia đ́nh và gia tộc,
lắm khi là để giúp vượt qua những bất
ḥa bất thuận trong cuộc sống, để ai
nấy lại thấy ấm t́nh hiệp thông và hiệp
nhất. Do đó, từ chương tŕnh đến cách
sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để
cả người lớn và trẻ con đều tham
dự tích cực, chan hoà trong t́nh hiệp nhất thân
mật. Nên chú trọng hơn tới nội bộ gia
tộc. Nếu mời vài người khách th́ nên liệu
sao để sự hiện diện của họ không
ngăn cản sự thân mật giữa mọi
người trong gia tộc.
Trên bàn thờ, có
thể dùng nến hồng (ngụ ư xin Chúa ban phúc lành cho
mọi người có mặt và vắng mặt) hoặc
nến trắng (ngụ ư nói lên ḷng tin, cậy và yêu mến
Chúa). Cũng có thể dọn mâm cơm trước bàn thờ
theo truyền thống dân tộc. Về nghi thức cầu
nguyện, có thể theo một trong ba h́nh thức sau
đây.
A. H́nh thức thứ
nhất:
- Gia chủ nói đôi
lời tuyên bố lư do: giỗ ai, mấy năm, vài nét
về người đă khuất (nếu là giỗ chung th́
nói chung về những tiền bối liên hệ) và mời
mọi người cầu nguyện
- Gia chủ ghi
dấu thánh giá, xướng kinh Lạy Cha,
- Có thể
đọc vài câu Lời Chúa
- Hát một bài
- Lời nguyện
trên của cúng:
“Lạy
Cha, xin chúc lành cho những của ăn Cha đă rộng
ḷng ban cho chúng con mà chúng con dùng để bày tỏ niềm
hiệp thông thân thương và quư mến đối
với người thân yêu đă khuất. Chúng con cầu
xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.”
- Lời nguyện
lễ giỗ:
Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa
nhân từ đă thương đưa các bậc tổ
tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng
con cũng xin Chúa đoái thương đến những
linh hồn đă qua đời đang cần tới ḷng
từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương
cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
(Có thể thêm:
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con
phải giữ ḷng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp
nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công
bội hậu cho những bậc đă sinh thành
dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho
phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu
xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.)
X. Chúng con cậy v́
Danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được lên
chốn nghỉ ngơi.
Đ. Hằng xem
thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô
cùng. Amen.
B. H́nh thức thứ
hai
Chủ sự tuyên
bố lư do rồi nguyện kinh trước bữa ăn
hoặc hát một bài xin Chúa chúc lành rồi mời mọi
người dùng bữa.
C. H́nh thức thứ
ba
Nếu cử hành nghi
thức cúng giỗ theo truyền thống dân tộc th́
thực hiện theo thứ tự sau đây
1. CHUẨN BỊ
ĐỒ CÚNG
Sau khi dọn thức
ăn, mọi người tề tựu nghiêm trang, chủ
lễ cầu nguyện trên của cúng.
2. LỜI NGUYỆN
TRÊN CỦA CÚNG
Nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần
Lạy Cha là Chúa
Trời Đất, là Cội Nguồn duy nhất và là
Hạnh Phúc đích thật của muôn loài. Chúng con cảm
tạ Cha đă ban những lương thực này
để nuôi sống chúng con như đă nuôi sống
những người đi trước chúng con. Giờ
đây những người đă khuất không c̣n cần
đến những lương thực này nữa nhưng
trước khi chúng con cùng nhau dùng bữa tưởng
nhớ (người thân của chúng con/họ/các ngài), chúng con muốn bày tỏ niềm
kính trọng, mến thương và hiệp thông qua dấu
hiệu thân thương của bữa ăn. Nhờ
đó, chúng con cảm thấy người đă khuất
vẫn hết sức gần gũi với chúng con. Nếu
(người thân của chúng con/họ/các ngài) c̣n
vướng mắc những lỗi lầm thiếu sót, cúi
xin Cha thương sớm hoàn tất cuộc thanh tẩy
để (người thân của chúng con/họ/các ngài)
sớm được hưởng Tiệc vui đời
đời. Cúi xin Cha cũng thương cho tất cả
chúng con đây một ngày kia được chung
hưởng niềm vui Nước Trời với Cha và
với những người thân yêu đă đi trước
chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Con Cha, là
Thiên Chúa và là Chúa chúng con, là Đấng hằng sống
hằng trị cùng Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn
thở muôn đời. Amen.
(Nếu có sẵn
nước thánh, chủ lễ nói những lời sau
đây trước khi rảy:
- Thưa anh chị
em, chúng ta cảm ta Chúa đă ban bí tích Thánh Tẩy
để tái sinh chúng ta làm con cái Chúa. Nước thánh chúng
ta dùng đây là nước tự nhiên nhưng chúng ta đă
xin Chúa chúc lành để thành dấu hiệu nhắc chúng ta
nhớ đến ơn làm con cái Chúa qua bí tích Thánh Tẩy.
Có những người chưa được lănh nhận
bí tích Thánh Tẩy bằng nước, nhưng ḷng đă
hướng về Chúa và đă cố gắng sống ngay
chính theo lương tâm, th́ cũng được Thiên Chúa
thanh tẩy trong máu Chúa Kitô. Với nước thánh này
rảy trên của cúng, chúng ta cảm tạ Chúa đă cho
tiền nhân được làm người và hơn
nữa, c̣n được làm con cái Thiên Chúa và
được chung phần hạnh phúc đời
đời với Chúa.
(chủ sự
rảy nước thánh trên của cúng)
Mọi người
cùng đọc chung Kinh Lạy Cha.
3. VĂN KHẤN
(Văn khấn
đọc trước bàn thờ, nên viết ra giấy
thật rơ ràng, bỏ những chữ thừa, để
khi đọc không lẫn lộn, mất nghiêm túc)
VĂN KHẤN
VỚI MỘT NGƯỜI ĐĂ KHUẤT TRONG NGÀY GIỖ
RIÊNG
Ông
(Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) kính
mến (hay thân mến),
Hôm nay là ngày giỗ
(đầy năm) của Ông (Bà/Cha/
Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/ Mợ/Anh/Chị/Em). Tất
cả chúng con (chúng tôi) quy tụ về đây để
tưởng nhớ.
Chúng con (chúng tôi) không
quên được h́nh ảnh của
(Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/ Cô/D́/Cậu/Mợ/Anh/Chị
hoặc Em). Dù nay c̣n phải buồn sầu xa cách v́ sự
chết, nhưng mai kia chúng ta sẽ lại sum vầy bên
nhau trong cơi ḷng của Thiên Chúa T́nh Yêu. Là con cái Chúa, chúng ta
biết rằng sự sống thay đổi chứ không
mất đi và thời lưu ngụ dưới trần
chấm dứt là để nhường chỗ cho
hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Chúng con (chúng tôi)
họp nhau cầu xin Thiên Chúa là Cha, nhờ công ơn
cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, sớm
hoàn tất những thanh luyện cần thiết cho
(Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em)
và đưa về hưởng phúc muôn đời. Chúng con
(chúng tôi) cũng xin (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/D́/Cậu/Mợ/Anh/Chị/Em)
nhớ đến chúng con (chúng tôi), chuyển cầu cho
chúng con (chúng tôi) trước nhan Chúa để chúng con (chúng
tôi) được mọi ơn lành phần hồn và
phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ
và măi măi. Amen.
VĂN KHẤN
VỚI TỔ TIÊN TRONG NGÀY GIỖ CHUNG (GIỖ TẾ
HIỆP)
Hôm nay là ngày … tháng…
năm… Tất cả chúng con cùng quy tụ nơi đây
để tưởng nhớ toàn thể tiên nhân trong Gia
tộc, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, các Bác, các Chú, Thím, Cô, D́,
Cậu, Mợ và các Anh Chị Em đă hoàn tất hành tŕnh
dương thế trước chúng con.
Thiên Chúa Toàn Năng là
Cha Trên Trời, là Cội Nguồn duy nhất, là
Đấng Tạo Hóa đă thương tạo dựng nên
tất cả, cho sống trên cơi đời này rồi
lại thương gọi
về cho hưởng phúc đời đời với
Ngài.
Chúng ta yếu hèn
tội lỗi, nhưng Chúa Cha giàu ḷng thương xót đă
cho Con Ngài là Chúa Kitô đến hy sinh, chịu nạn
chịu chết trên cây thánh giá mà cứu chuộc và ban
ơn tha thứ; nhờ đó, chúng ta được thoát
ách sự chết và được sống luôn măi cho Thiên
Chúa là Cha.
Hôm nay chúng con họp
nhau cùng cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa
về những hồng ân ấy. Chúng con cầu xin cho
tất cả những ai đang cần ơn giải thoát,
sớm được Thiên Chúa hoàn tất những thanh
luyện cần thiết và đưa về hưởng
phúc muôn đời.
Chúng con cũng xin các
bậc tiền nhân nhớ đến chúng con, chuyển
cầu cho chúng con trước nhan Chúa để chúng con
được mọi ơn lành phần hồn và phần
xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và măi măi.
Amen.
Sau phần văn
khấn, chủ sự đọc lời nguyện lễ
giỗ và lời nguyện báo hiếu:
Chúng ta dâng lời cầu nguyện.
Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa
nhân từ đă thương đưa các bậc tổ
tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng
con cũng xin Chúa đoái thương đến những
linh hồn đă qua đời đang cần tới ḷng
từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương
cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lạy Chúa là Cha
rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ ḷng
hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính
nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho
những bậc đă sinh thành dưỡng dục chúng con,
và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối
với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con.
Để kết thúc
phần nghi thức, chủ sự xướng cho mọi
người đáp như sau:
- X: Chúng con cậy v́
Danh Chúa nhân từ, xin cho các đẳng linh hồn
được lên chốn nghỉ ngơi
- Đ: Hằng xem thấy mặt
Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
4. NIỆM
HƯƠNG
Từng người
đến khấn và vái trước bàn thờ gia tiên và bàn
thờ của vị được tưởng nhớ
trong ngày giỗ.
Cầm hương
trong tay và khấn thầm hoặc nói lớn rồi thinh
lặng, lâu hay mau tùy ư tùy ḷng, rồi cắm hương lên
các bàn thờ. Sau đó có thể vái, lạy hoặc phủ
phục, rồi lui xuống, nhường chỗ cho
người khác.
Ghi chú
về việc niệm hương:
Theo
tập tục Việt
Dấn thân t́m cách
đem Tin mừng của Chúa đến cho người
đồng tộc, tôi được biết một
đại biểu nọ được Ban Chấp hành
Ḍng họ Tỉnh giao trách nhiệm chuẩn bị
Đại hội Ḍng họ tại địa bàn
huyện. Ông vận động rất nhiệt t́nh
nhưng lắm người nghi ngại không tham gia. Ông
dẫn chứng rằng đây là một sinh hoạt
đang được đồng tộc cả
nước quan tâm, cả những người Công giáo
cũng đang nhập cuộc. Một người
phản bác:
- Coi chừng lại
bị mấy anh Công giáo “phỉnh” theo đạo.
Câu nói đặc thù
rất phổ biến và khá tiêu biểu. H́nh như anh
chị em người lương dị ứng, xem
việc tin theo Chúa như một việc tệ hại
cần đề pḥng!
Sự kiện ấy
dễ hiểu. Thử h́nh dung xem, một kẻ ác ư nào
đó dùng tin nhắn điện thoại phát đi liên
tục những điều vu khống bịa đặt
về bạn một cách có hệ thống và bạn không thể
thanh minh biện hộ ǵ cả. Mà dù muốn thanh minh
biện hộ cũng chẳng biết những
điều bôi nhọ ấy đă phát tán tới tận
những ai. Có thể càng thanh minh, chuyện càng gây chú ư
ầm ĩ, bạn đành thinh lặng. Chỉ sau một
tháng thôi, cả thôn cả xă xầm x́ đủ
điều về bạn. Bạn chẳng bị thân
bại danh liệt th́ cũng thấy mặc cảm
đủ điều. Đàng này những chuyện bịa
đặt bôi nhọ Đạo Chúa kéo dài từ cuối
thế kỷ XIX đến nay với đủ thứ
thêu dệt truyền miệng thật hấp dẫn,
thậm chí c̣n diễn thành tiểu thuyết và phim ảnh.
Dân chúng chỉ được nghe măi một chiều,
“mưa dầm thấm lâu”, họ sẽ nghĩ ǵ về
Đạo Chúa? Tôi đề nghị tổ chức ngày
truyền thống từng ḍng họ và mời anh chị em
lương dân tới chính là để họ có thể
thấy tận mắt mọi sự ngược hẳn
điều họ đă hiểu lầm từ tấm bé.
Không kể những
sách báo phim ảnh bài xích Kitô giáo đă gây ấn
tượng lệch lạc sâu đậm trong tâm trí
người dân, việc truyền giáo ào ạt và hời
hợt cuối thập niên 1950 đầu 1960 có thể
đă khiến quần chúng như bị chích vác-xanh “pḥng
dịch”, đẩy lùi sự xâm nhập của hạt men
Kitô giáo. Cả việc dạy giáo lư dự ṭng vội vă
chiếu lệ nhiều nơi hiện nay cũng đang
gây nên tác dụng hiểu lầm ấy.
Rất nhiều
người tẩy chay, từ chối không cầm
đến sách vở và băng đĩa Công giáo. Ư thức
t́nh trạng ấy, tôi không phân phát sách vở Công giáo hàng
loạt. Chỉ một số người đă có t́nh thân
hoặc cảm t́nh rồi, tôi mới tặng sách. Ngoài ra,
chỉ những ai xin, tôi mới tặng. Nếu thấy
họ có vẻ muốn đọc, tôi gợi ư để
họ xin rồi mới tặng. Chính Chúa Giêsu đă ân
cần dặn môn sinh phải dè dặt, đừng tạo
cớ cho người ta giày đạp “của thánh” và
“ngọc quư” (x. Mt 7,6).
Tuy nhiên, tôi lại
cũng có một ghi nhận khác. Đang khi từ chối
sách vở và băng đĩa Công giáo th́ người ta
lại trân trọng tấm ḷng. Có thể lúc đầu họ
ngập ngừng, nhưng sau khi đă trắc nghiệm và
thấy rơ sự chân thành của ta, họ rất quư
mến. Người ta quư mến v́ thấy tôi không chăm
chăm nói chuyện Đạo, chỉ nói chuyện họ
hàng. Tuy nhiên, khi được mời thắp hương
th́ tôi cho họ thấy ḷng tin Kitô giáo của tôi. Tôi ghi
dấu thánh giá chậm và rơ, rồi cầu nguyện
lớn tiếng. Tôi nguyện kinh Lạy Cha và dâng lời
tạ ơn Thiên Chúa là Cha chung của mọi người,
xin Ngài ban ơn lành cho bà con đồng tộc tại
địa phương. Sau đó, tôi dâng lời cầu
nguyện với các bậc Tổ tiên đồng tộc
tại từ đường, xin các vị bầu cử
trước nhan Thiên Chúa Tạo Hóa cho con cháu
được mọi điều may lành.
Ở một số
trường hợp, sau khi tôi cầu nguyện như
thế, người ta đă nêu những câu hỏi và tôi
trả lời. Đúng là tôi không tuyên truyền về đạo
nhưng chỉ trả lời thắc mắc của
họ.
Cũng có một
cơ hội thường gặp khác mà tôi có thể
dựa theo để nói lên quan điểm Kitô giáo cách
hồn nhiên. Đó là khi người ta than phiền về
t́nh cảnh suy đồi đạo lư, với những bản
tin cụ thể, lặp lại từ báo, từ đài…
Tôi chia sẻ với họ rằng đây chính là lư do
khiến tôi dấn thân cho trào lưu nối kết ḍng
họ. Là linh mục, tôi xác tín rằng cần phải
kết hợp mọi lời kêu gọi thành một bản
hợp ca. Có nhiều cơ quan đoàn thể lên tiếng,
các gia tộc lên tiếng và chức sắc các tôn giáo lên
tiếng. Dù tất cả đều lên tiếng cùng
một lúc nhưng không có sự đồng thuận và
hỗ trợ lẫn nhau th́ sẽ không tạo
được kết quả. Chẳng khác nào nhiều
người đơn ca cùng một lúc, mà mỗi
người hát một bài riêng hay một kiểu riêng, th́
tất cả chỉ tạo nên một tạp âm gây khó
chịu cho người nghe. Có thể số người
hát ít hơn nhưng phối hợp hài ḥa với nhau th́
sẽ tạo được âm hưởng tốt, thông
điệp sẽ mạnh mẽ hơn.
Để phát
triển xă hội,
Việt
Những lư do thời
cuộc khiến nhiều người ngại nói
đến hai chữ truyền giáo, nhưng theo tôi, đă
đến lúc cần mạnh dạn nêu rơ sự cần thiết
của yếu tố tôn giáo trong việc giáo dục
lương tâm cho người dân, cách riêng là các bạn
trẻ.
Với những tâm
tư ấy, tôi viết loạt bài chia sẻ này không riêng
cho các linh mục và anh chị em đồng đạo
nhưng chung cho hết mọi người Việt
Có thể bạn,
người đang đọc những bài này, là một
người ngoài Kitô giáo. Nếu thế, tôi xin
được gửi đến bạn một lời
chào chúc đặc biệt. Thân ái cầu chúc bạn sớm
nhận ra t́nh Cha của Thiên Chúa. Tôi không giấu giếm
rằng tôi đang khao khát và nôn nóng muốn chia sẻ
với bạn niềm hạnh phúc chúng tôi đang có,
niềm hạnh phúc được làm con Thiên Chúa Tạo
Hóa Tối Cao, Chí Thánh, Nhân Hiền và Hằng Sống.
Tôi đang chia sẻ
với bạn một Tin mừng, một niềm vui.
Nếu bạn nghĩ rằng tôi đang làm công tác
truyền giáo th́ cũng chẳng sao. Bởi lẽ
truyền bá một tôn giáo tốt lành th́ chẳng có ǵ
xấu xa. Lắm người làm như thể khi chúng tôi
bảo nhau truyền giáo là chúng tôi đang âm mưu làm
một chuyện ǵ đen tối, bậy bạ, chẳng
khác nào đang lén lút rủ nhau phạm những tội ác ǵ
quái gở! Ô không, bạn thấy đó, chúng tôi chỉ
muốn chia sẻ với mọi người một thông
tin quan trọng và hữu ích: Đó là, tất cả chúng ta
đều có chung một người Cha là Thiên Chúa Tạo
Hóa, chẳng phải v́ chúng ta xứng đáng ǵ để
được làm con Ngài, nhưng chính Ngài đă yêu
thương chúng ta đến nỗi đă tặng ban
người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô cho chúng
ta, đến làm Anh Cả của nhân loại, cho tất
cả chúng ta thành em của Người Anh Cả ấy và
thành con cái của Cha trên trời.
Có thể những
Kitô hữu bạn gặp là chúng tôi đây c̣n có rất
nhiều khuyết điểm, nhiều điều đáng
trách, không xứng danh là con cái Thiên Chúa. Dù vậy, chúng tôi
vẫn luôn cố gắng đổi mới chính ḿnh và,
trong nỗ lực ấy, chúng tôi chân thành chia sẻ với
bạn về Đấng là Cha chung của chúng ta.
Đức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa, đă xuống thế làm người
để những ai tin vào Ngài th́ sẽ nhờ Ngài mà
được trở nên con cái Thiên Chúa. Những ai nghĩ
rằng đó là chuyện đùa, sẽ không bao giờ
biết được sự thật. C̣n những ai
nhận biết được sự thật này, sẽ vô
cùng hạnh phúc. Có những người cảm thấy sung
sướng được làm con một thủ
trưởng, một thủ tướng, một vị
vua... Nỗi sung sướng ấy làm sao sánh
được với hạnh phúc của bạn khi
nhận ra ḿnh là con của Thiên Chúa... Nếu tới đây
bạn vẫn chưa nhận ra điều ấy th́
bạn nên dành vài phút thật thinh lặng, gạt bỏ
hết mọi suy nghĩ và âu lo, rồi khẽ thưa
với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa Tạo Hóa, nếu quả
thật Ngài là Cha của con, xin hăy tỏ cho con biết
điều đó”. Mỗi tối, hăy dành dăm phút thinh
lặng để ngỏ lời như thế, rồi
bạn sẽ thấy... Đừng sợ mất dăm
phút để đổi lấy một cuộc
đời, hơn nữa, đổi lấy cả một
cuộc sống đời đời…
Khi đi t́m những
cội nguồn nhân loại, người ta quư từng trang
viết chắp vá, từng chi tiết nhặt nhạnh
đây kia, từng dấu vết mờ nhạt của
người xưa. Quyển sách nói về cội nguồn
chung của nhân loại, là bộ Kinh Thánh, h́nh thành từ
thế kỷ XIII trước Công nguyên đến cuối
thế kỷ I của Công nguyên, cho đến nay vẫn
c̣n nguyên vẹn nội dung thuở ban đầu. Bạn
hăy thử đọc một lần để nhận ra
sự thật kỳ diệu về cả nhân loại và
về chính ḿnh... Tại sao không?
Nhiều
trường hợp con cháu không biết tên tuổi,
cuộc đời và sự nghiệp vị thủy tổ
có ghi trong gia phả, hoặc v́ do kiêng cữ hay là do tôn
trọng không dám nhắc đến, hoặc v́ lười
lĩnh không bao giờ chịu mở gia phả. Bộ gia
phả của gia tộc là thế mà bộ sách viết
về Thiên Chúa cũng thế. Nếu ta không bao giờ
đọc đến th́ cũng chẳng thể nào
biết được Thiên Chúa là ai và Ngài đă làm ǵ cho ta.
Toàn bộ Kinh Thánh
được tóm tắt nơi câu chuyện Người
Cha nhân hậu ở sách Tin Mừng theo Thánh Luca 15,11-32: “Một
người kia có hai con trai. Người con thứ nói
với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản
con được hưởng.' Và người cha đă
chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con
thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi
phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đăng, phung
phí tài sản của ḿnh... Thế nhưng rồi giữa
đau thương buồn tủi, anh ta nhận ra lỗi
của ḿnh và đă quay về với Cha.”
Một khi bạn
đă nhận ra ḿnh là con của Trời Cao, bạn hăy
thưa chuyện với Cha theo lời kinh mà chính Chúa Giêsu
Kitô là Con Duy Nhất đồng bản tính với Thiên Chúa
Cha đă dạy:
“Lạy Cha chúng con
ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
nước Cha trị đến, ư Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm
nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ
để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu
chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”
Được làm con
cái Trời Cao là ước mơ sâu thẳm tận đáy
ḷng mọi người và là điều đă
được Con Một của Trời Cao là Chúa Cứu
Thế Giêsu đến loan báo và thực hiện cho nhân
loại. Thế nhưng có người không dám tin v́ vinh
dự ấy đ̣i hỏi họ phải sống một
cuộc sống mới. Cũng có người tin nửa
vời, chỉ mang danh nghĩa con cái Thiên Chúa mà không
thực sự sống như thế. Nhận biết t́nh
Cha của Thiên Chúa là một ơn lớn của Chúa ban, do
đó, ta cần tha thiết xin Chúa ban cho ta ơn ấy.
Được
biết Thiên Chúa là Cha, bạn sẽ sung sướng
nhận ra rằng người Cha ấy ôm ấp trong ḷng
Ngài cả bản thân bạn và Tổ tiên bạn. Bạn trả
lời cho tôi xem, mỗi khi nghĩ đến Ông Bà Tổ
Tiên, bạn h́nh dung thấy họ ở đâu? Ở
với Nguồn Cội nào? Nơi họ ở tối
tăm hay rực sáng? Nếu rực sáng th́ ánh sáng ấy do
đâu?
Phần tôi, nhờ
được Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, tôi biết
chắc chắn không sợ sai lầm chút nào, tôi biết
rất rơ rằng: “Họ sẽ được nh́n thấy tôn nhan Ngài, và
thánh danh Ngài ghi trên trán họ. Sẽ không c̣n đêm
tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của
đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, v́
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và
họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn
đời” (Khải huyền 22,4-5). Mỗi lần gặp
thử thách trên đường phục vụ, tôi mau chóng
t́m lại được b́nh an khi nhớ đến Chúa và
tất cả những người đă đi
trước tôi đang ở trong Chúa và đang đợi
chờ tôi nơi nhà đời đời của Thiên Chúa.
Tôi nghĩ đến chị Hai tôi, các em dâu tôi, Cha tôi, các
Chú Thím, Cậu Mợ, Cô D́, những Linh mục đàn anh và
các Bạn hữu... đă hoàn tất cuộc đời và
đang được no thỏa, mỗi người
một vẻ, trong nhà Cha Chung trên trời. Tôi thấy tràn
ngập mến thương và mong sớm tới ngày
đoàn tụ với tất cả. Trong tôi như có
một nỗi giằng co êm dịu, một đàng mong
sớm về Nhà Cha là quê hương đích thật,
một đàng lại khao khát được măi măi hiến
dâng cuộc sống để đem biết bao anh chị
em chưa nhận biết Thiên Chúa về với T́nh Cha muôn
thuở.
Mời bạn
tiếp tục đọc các bài chia sẻ của tôi. Không
riêng tôi, nhiều người đang nghĩ đến
bạn và đang nguyện xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành cho
bạn và gia đ́nh. Cầu chúc bạn ngày càng nhận ra
ḿnh là con của Trời Cao và sống thật xứng
với danh nghĩa ấy.
Tuần Thánh năm
2010, tôi được đi thăm huyện đảo Lư
Sơn. Những bia mộ ở đây có một nét
đặc biệt. Tất cả các mộ họ Vơ dù thuộc
nhánh nào cũng bắt đầu bằng ba chữ “Thái
Nguyên Quận”. Họ Nguyễn là “Trần Lưu Quận”,
họ Bùi là “Hà Đông Quận”, họ Trần là “Vĩnh Xuyên
Quận”, họ Trương là “Thanh Hà Quận”, họ
Dương là “Hoàng Nông Quận”, họ Lê là “Kinh Triệu
Quận” và họ Phạm là “Cao B́nh Quận”. Phần
đông cư dân trên đảo cho rằng đó là tên
những châu quận trên đất liền mà các ḍng họ
này phát xuất. Tôi rất ngạc nhiên v́ một vài
địa danh rất lạ, mới được nghe
lần đầu, và v́ không có thời nào trong lịch
sử đất nước đă được trực
tiếp chia thành quận thay v́ tỉnh. Khi đến
thăm chùa Từ Quang ở An Hải, tôi nêu câu hỏi và
thầy Thích Hành Hỷ đă cho một câu trả lời
khá thỏa đáng. Theo thầy, việc ghi châu quận
như thế chỉ áp dụng cho người chết
chứ không cho người sống. Tập tục này
được ghi trong quyển Lịch Vạn Niên. Một
phụ lục của quyển này liệt kê 510 ḍng họ,
mỗi ḍng họ có kèm theo tên một châu quận và một
số ḍng họ có chung châu quận. Người ta h́nh dung
địa lư cơi âm có nhiều châu quận khác nhau, khi
sống người ta có thể trôi dạt bất cứ
đâu trên trái đất, nhưng khi chết th́ ai về
châu quận nấy. Như thế, ba chữ “Thái Nguyên
Quận” trên bia mộ người họ Vơ không phải là
địa chỉ xuất phát nhưng là địa chỉ
đến.
Tôi đă có dịp
đến thăm cụ Vũ Hiệp tại tư gia
ở đường Lư Tự Trọng, quận I. Là
một nhà nghiên cứu nổi tiếng về gia phả và
các ḍng họ Việt Nam. Theo cụ, gốc gác 510 ḍng
họ trước khi được xem như bản
đồ địa lư cơi âm, th́ đă là tư liệu
địa lư nhân văn có thật tại Trung Quốc.
Cụ cũng đồng thời lưu ư rằng việc
gán ghép các ḍng họ Việt
Theo ông Vũ Hiệp,
do nhu cầu quản lư nhân khẩu để đô hộ,
người Tàu đă bắt người Việt phải
đi vào một hệ thống ḍng họ. Do những
điều kiện cụ thể từng nơi, từng
thời điểm, người dân ở một khu
vực nào đó được ghép vào một số ḍng
họ nhất định nào đó. Sự kiện này
cũng đă xảy ra đối với một số
cộng đồng sắc tộc ít người, chẳng
hạn nơi thông tin sau đây trên trang Văn Hóa Học:
“Các
dân tộc ở miền núi Quảng Ngăi vốn có tên mà không
có họ, v́ thế không có thuật ngữ riêng để
chỉ ḍng họ. Mỗi người có tên gọi riêng và
kèm theo đó là một bổ ngữ chỉ giới tính…
Vào
thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc, để dễ theo
dơi hộ tịch, hộ khẩu và số đinh trong các
làng nóc miền núi Quảng Ngăi, các dân tộc miền núi
trong tỉnh đều được đặt họ
Đinh (theo họ cha), tức có nghĩa là thằng,
đứa (con trai), dần dần con gái cũng theo họ
cha mà ghi trong hộ tịch, hộ khẩu, hoặc kê khai
đi học là họ Đinh (8).
Năm
1969, khi Bác Hồ mất, hầu hết người Cor
ở Trà Bồng đổi sang họ Hồ. Số
đông người Hrê ở Ba Tơ lấy họ Phạm
(họ của đồng chí Phạm Văn Đồng),
phần lớn đồng bào người Hrê ở Sơn
Hà, Minh Long, đồng bào Ca Dong ở Sơn Tây vẫn c̣n
giữ họ Đinh.”
Trường hợp
họ Vũ Vơ lúc đầu cũng thế. Bàn về ông
Vũ Hồn (804-853), người được coi là
thủy tổ họ Vũ-Vơ tại Việt Nam, cụ Vũ
Hiệp nêu một nhận xét lư thú rằng cả gia
phả, tộc phả và thần phả đều không nói
Vũ Hồn có một người con nào. Tác giả
Tiến sĩ Vũ Huy Thuận, trong bài “Giới thiệu
sách cổ văn hoá làng Mộ Trạch” (http://hovuvovietnam.com/ Gioi-thieu-sach-co-van-hoa-lang-Mo-Trach) cũng có viết:
“Ngọc phả làng Mộ Trạch kể lại rằng:
Cụ Vũ Hồn (804-853) sau khi từ quan (843-844) đă
đến nơi đây lập trang trại đặt tên
là “Khả Mộ trang”... Khi cụ mất (853), dân Khả
Mộ trang lập miếu thờ cụ như vị sáng lập
thôn Khả Mộ (đến triều Trần 1226
được đổi tên là Mộ Trạch). Để
tưởng nhớ công lao của cụ, dân trong làng
đều mang họ của cụ. Họ Vũ. Cũng
từ đó, Cụ không chỉ được thờ
như vị thành hoàng làng, mà c̣n được coi là
thủy tổ họ Vũ Mộ Trạch.”
Gần đây
người ta phát hiện ra đền thờ hai nhân
vật họ Vũ sống nhiều thế kỷ
trước ông Vũ Hồn: đền thờ bà Vũ
Thị Thục, nữ tướng của Hai Bà Trưng và
đền thờ nhà giáo Vũ Thê Lang, được cho là
của thời Hùng Vương. Dù vậy ông Vũ Hồn
vẫn được đa số người họ
Vũ-Vơ ngày nay dành cho danh hiệu thủy tổ họ
Vũ-Vơ ở Việt Nam, và theo tôi, điều ấy chính
đáng, bởi một lẽ duy nhất là đại chúng
đương thời đă v́ cảm mến ông mà cải
sang họ Vũ-Vơ, coi ông như tổ phụ.
Có những
người gốc họ Vơ nhưng nhiều thế
hệ qua đă mang một họ khác. Lại cũng có
những người mang họ Vơ nhưng thật ra là
từ một ḍng họ khác cải sang. Việc khám phá ra
chuyện cải họ có thể khiến nhiều
người bị hụt hẫng. Khi hoàn thành bài viết
về họ Vơ tỉnh Phú Yên, trong đó có thông tin về
một nhánh họ Vơ ở xă Ḥa Thắng trước kia là
họ Lê, tôi gởi cho một người con gái nhánh này
xem. Cô hồi âm cho tôi như sau:
“Chào bác ! Con đă đọc bài
viết về họ Vơ mà bác đă trải qua không ít công
sức để truy t́m về cội nguồn của ḍng
họ Vơ. Con thật sự bất ngờ về một
sự thật mà lâu nay con thuộc thế hệ trẻ nên
không biết được, đó là con thuộc về
nguồn gốc họ Lê chứ không phải họ Vơ.
Điều này làm con có một chút ngậm ngùi.
Trong ư
nghĩ của con lại đặt ra một dấu
hỏi.
Quá
khứ của lịch sử là một sự bí ẩn
chưa có sự khẳng định nhất định.
Ví như trước thời ông Cao tổ của con
thuộc về ḍng họ Lê, vậy các đời
trước hơn nữa liệu các cụ cao tổ
thuộc về họ ǵ ? và những biến đổi
của nó như thế nào ? điều này làm con phân vân.
Nhưng rồi con suy nghĩ rằng dù con mang ḍng họ nào
th́ con vẫn biết ơn các cụ tổ đă sáng
lập ra các ḍng họ để con cháu ngày nay
được mang tên ḍng họ của các cụ lưu
truyền lại. Và điều này đă làm con cảm
thấy vui bác à, con mong rằng sau này con sẽ có nhiều
cơ hội được hiểu về nguồn
gốc đích thực của các cụ tổ mà hiện
đang là một dấu hỏi rất lớn trong suy
nghĩ của con bác ạ!.
Vơ Thị Kim Đoan (sđt: 0988-234-828)
Nữ độc
giả của tôi là một Phật tử ăn chay
trường, nên sớm nhận ra ngay mọi sự
đều vô thường và tương đối. Tôi
muốn nói thêm với cô rằng, khi phải giấu họ
Lê, ông Cao của cô đă chọn họ Vơ chứ không
phải một họ nào khác, hẳn là do ông cảm kích ḷng
tốt của một vài người họ Vơ nào đó.
Tương tự, nếu có người họ Vơ nào đó
phải thay tên đổi họ và đă chọn họ Lê
chứ không phải họ khác, th́ chắc hẳn v́ ông
thấy người họ Lê đáng mến. Nếu các
vị tổ phụ nhân loại hướng ḷng ta
đến vị Cha Chung trên trời th́ những thực
tế về quan hệ họ hàng máu mủ dẫn ta đến
cảm nghiệm anh em bốn biển một nhà.
Điều thứ hai này bắt nguồn từ
điều thứ nhất: Mọi người trên thế
giới không thể là anh em với nhau nếu không có chung
một người Cha.
Chúng ta đọc
thấy trên nhiều bia mộ cụm từ sau đây:
“Mộ thủy tổ họ…”, “Mộ cao tổ họ…”. Vị
nằm ở đó được coi là “thủy tổ”
nhưng người ta không biết tên, mặc dù có khi chỉ là người sống cuối thế
kỷ XIX. Gia tộc phía nội tôi cũng nằm trong
trường hợp này, vị tổ khuyết danh sống
vào giữa thế kỷ XIX. Việc
truy t́m thủy tổ một ḍng họ quả là chuyện
mịt mờ vô vọng nhưng cũng có cái hay là đánh
thức nơi mọi người mối bận tâm đi
t́m nguồn cội đích thực và cuối cùng của
nhân loại là chính Thiên Chúa
Tạo Hóa.
Hiểu như
thế, ta sẽ tiến tới một thái độ trung
dung về vấn đề gia phả. Một đàng, ta
tâm đắc với lời Thánh Phaolô dạy ở
đầu thư thứ nhất gửi cho Timôthê:
“Đừng chú ư đến những chuyện hoang
đường và những gia phả dài ḍng; những cái
đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào
kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta
biết” (1Tm 1,4). Một đàng, v́ ích lợi giáo dục, ta
sẽ cổ vơ đồng tộc và đồng
đạo xây dựng lại bản gia phả giới
hạn với những bậc Tổ Tiên hiện c̣n biết
được, bởi lẽ đây là một công việc
mang tính sư phạm, có tiềm năng đóng góp vào
sự phục hồi tấm “ḷng lành”, cơi ḷng hướng
thiện cho thế hệ trẻ giữa ḍng cuồng
lưu của sự suy đồi đạo lư.
Trong bài tiếp sau
về “tâm tư của người loan Tin mừng cho
người cùng ḍng họ”, tôi sẽ chia sẻ thêm về
điều ấy.
Ngày truyền
thống đồng tộc Công giáo mở ra một cánh
cửa giao lưu, để ta có thể mời anh chị
em đồng tộc người lương đến
với mái từ đường của trăm họ. T́nh
thân cần được tiếp nối qua sự thăm
viếng. Giáo xứ nào cũng có những nhóm thăm
viếng các bệnh nhân, người neo đơn hoặc
già cả. Giờ đây, sẽ thêm một đối
tượng nữa là những gia đ́nh có thiện
cảm với Đạo Chúa qua việc tham dự ngày
truyền thống đồng tộc tại nhà thờ Công
giáo. Mỗi lần đi ngang nhà, ta nhớ ghé thăm.
Câu chuyện có
thể không bao giờ cạn là chuyện chia sẻ
những thông tin về gia phả. Sau chiến tranh hầu
hết chứng từ bị mai một, việc dựng
lại gia phả riêng từng cụm từng nhóm lắm
khi hết sức khó, khiến nhiều người nản
ḷng bỏ cuộc. Việc t́m ṭi liên hệ nói kết
giữa những nhánh đă đứt đoạn hằng
thế kỷ và đă trôi dạt tới những
địa phương khác nhau, mặc dù lư thú, càng là
chuyện chẳng có mấy hy vọng.
Xưa gia phả ḍng
họ thường được bảo quản trong
một hộp sơn son thếp vàng đặt trên bàn
thờ của từ đường. Hằng năm vào dịp
tế đầu xuân (xuân thủ) hoặc dịp giỗ
chung của gia tộc, người ta thỉnh gia phả
xuống và ghi tên những người đă khuất trong
năm qua. Việc chép gia phả gắn liền với ngày
giỗ chung, cho nên khi việc cúng giỗ đứt
đoạn, gia phả cũng đứt đoạn.
Bên cạnh những
khó khăn v́ chiến tranh ly loạn, c̣n có một khó
khăn đến từ tấm ḷng thành kính của con cháu
đối với tổ tiên. Ngay cả khi ở từ
đường vẫn c̣n gia phả ghi rơ tên vị
thủy tổ, phần đông trong gia tộc vẫn không
biết vị thủy tổ tên ǵ, chỉ v́ các thế
hệ con cháu hết sức kính trọng tên của tổ
tiên, có thể v́ sợ “phạm húy”,
không bao giờ nhắc tới. Đàng khác, gia phả
được ghi bằng Hán Nôm, con
cháu có mở ra cũng không đọc được.
Ṭa Thánh đă giải
tỏa lệnh cấm về việc thờ cúng Tổ Tiên
từ nửa thế kỷ, nhưng măi đến nay, thành
kiến "theo Đạo bỏ ông bỏ bà" vẫn
chưa được gột sạch. Để hóa
giải những hiểu lầm đă quá ăn sâu,
thiết tưởng người tín hữu Công giáo cần
nhập cuộc vào nỗ lực t́m nguồn cội
của ḍng họ ḿnh. Mất gia phả là thảm trạng
chung cả cho người lương lẫn người
giáo. Bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc, nay ít gia
tộc c̣n giữ được gia phả lâu đời.
Do thời thế đổi thay, nhiều bi kư, bút tích và
sử liệu đă thành tro bụi, những chứng
cứ t́m được thật hiếm hoi, không
đủ rọi sáng những khoảng tối và những
tồn nghi lịch sử. Người ta đành hài ḷng
với những suy diễn và phỏng đoán. Chẳng ai
nỡ trách ai.
Một giải
đáp chung hiện đang được các gia tộc
cố gắng làm xong sớm, là chuyển các bản gia
phả bằng Hán Nôm sang chữ quốc ngữ. Càng ngày
số người thông thạo Hán Nôm càng hết sức
hiếm hoi, việc chuyển dịch các gia phả sang
quốc ngữ càng trở thành một việc khẩn
cấp. Đó là những đề tài mà những ai quan tâm
tới cội nguồn có thể nói măi không hết.
Một phương
tiện khác là hỏi han chia sẻ qua điện thoại.
Nếu ta có ḷng với người đồng tộc, th́
sẽ sớm có hàng chục và hàng trăm số điện
thoại. Nếu máy có 2 sim, ta cho những số
điện thoại này vào một sim. Nếu chỉ có
một sim, nên lưu rơ cả họ và tên để máy
sẽ tự động xếp những người đồng
tộc vào một chuỗi. Khi liên hệ đồng
tộc vượt ranh giới làng xă, cũng cần ghi thêm
vài chi tiết sau tên của mỗi người, để
khi họ gọi đến, ta nhận ra ngay đó là ai.
Câu chuyện về
gia phả có thể giúp bạn nhập đề vào Tin
mừng của Chúa rất sớm, bởi lẽ câu
đầu tiên của bộ Tin mừng bàn về gia
phả: “Sách gia phả của Đức Giêsu Kitô…”
Tùy lúc, câu chuyện
về gia phả có thể là thông tin vắn tắt qua
điện thoại, hoặc chia sẻ tại bàn ăn,
mạn đàm bên tách cà phê.
Bản gia phả
Mátthêu giúp ta tŕnh bày thật hồn nhiên phần lịch
sử ơn cứu rỗi từ ông Abraham tới Chúa Giêsu,
với 42 đời, được Thánh Matthêu tỉ mỉ
ghi chú là 3 lần 14, tức là 6 lần 7 đời, và gián
tiếp nói rằng chỉ một ḿnh Chúa Giêsu là bộ
bảy thứ bảy, là đỉnh cao và là sự toàn bích…
Người nghe
sẽ rất lư thú khi được biết bản gia
phả thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, ghi trong sách Luca,
phăn ngược lên đến tận Ađam: “Ađam bởi
Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Cội Nguồn của mọi cội
nguồn.
Điều ấy
đem lại an ủi cho những người gốc
họ này nhưng nhiều thế hệ qua đă mang
một họ khác. Người ta không c̣n bị hụt
hẫng v́ chuyện cải họ. Dù có chuyện cải
họ hoặc dù chỉ phục hồi gia phả
được một số đời ít ỏi, th́ ta
vẫn biết chắc chắn rằng có một Thiên Chúa
duy nhất là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha chung hết
mọi người. Bốn bể là anh em v́ tất cả
đều là con cái của cùng một Cha trên trời.
Về điểm
này, có một chi tiết cần lưu ư. Hiện đang
nở rộ trào lưu nói về Cha Trời của
những người ḥa đồng tôn giáo. Ngôn từ có
vẻ giống nhau nhưng sự thật hoàn toàn khác.
Nơi mạc khải Kitô giáo, ta được biết
Thiên Chúa là Cha chính là nhờ được Con một Ngài là
Đức Giêsu Kitô đến tỏ cho biết (Ga 1,18).
Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha chính là nhờ
Đức Giêsu Kitô ban Thánh Thần để Thánh Thần
thốt lên trong ḷng ta: “Abba!”, thân thiết như em bé: “Ba
ơi, Bố ơi!”. Thiên Chúa Cha nơi Kitô giáo không lẻ
loi một ḿnh nhưng hiệp nhất với Con Ngài và Thánh
Thần Ngài thành Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi.
Lần giở Kinh
Thánh, ta sẽ thấy lư thú về chuyện gia phả.
Đang khi những bản gia phả nhân loại chưa
được 200 năm hầu hết đều đă tan
vào hư vô th́ những bản gia phả cổ trong bộ
Kinh Thánh đă hơn 3000 năm qua vẫn được bảo
tŕ. Nơi quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh,
sách Sáng Thế Kư, bản gia phả ở 11 chương
đầu mang tính dă sử. Từ chương 12 trở
đi, câu chuyện bắt đầu với một
người đồng thời với các vua Hùng
đầu tiên của ta là ông Abraham. Ta chỉ biết
về các Hùng Vương ở con số 18 vị vua,
mấy ai biết được tên 18 vị vua ấy.
Lạc Long Quân, Âu Cơ, Lục Tộc, Hùng Vương
Thứ Sáu, Tiết Liêu, Hùng Vương Thứ Mười
Tám, Mỵ Nương, Sơn Tinh, Thủy Tinh… Tất
cả những truyền thuyết ấy lăng đăng mơ
hồ… được kể lại theo truyền khẩu
vỏn vẹn trong dăm trang. Đang khi đó, ông Abraham
đă trở thành một gia tộc rồi một dân
tộc, với những trang gia phả chính xác. Chỉ
bốn thế hệ đầu tiên của lịch sử
ơn cứu rỗi đă lấp đầy gần
bốn mươi chương của sách Sáng Thế Kư,
từ chương 12 đến chương 50. Nhờ đâu
mà những trang gia phả ấy và cả bộ sách Kinh
Thánh dày cộm được bảo tồn không suy
suyễn qua thời gian đằng đẵng?
Một sự
kiện khác cũng dễ khiến người nghe phải
suy nghĩ: Người ta thường trân trọng
những nguồn cội biết được cách
bấp bênh qua những trang phả liệu mù mờ,
đang khi ấy nguồn cội đầu tiên mà Kinh Thánh
giới thiệu vẫn sờ sờ nơi cuộc
sống thường nhật th́ người ta lại thản
nhiên gạt bỏ.
Những
người rao giảng về Cha Trời bảo rằng
Cha Trời giáng cơ dạy người ta ghi lại
những bài giáo lư. Sách Koran của Hồi giáo cũng
bảo rằng Đấng Allah đọc cho Tiên tri Mahômét
viết lại những lời Ngài dạy. Đang khi
đó, Kinh Thánh của Do Thái giáo và Kitô giáo th́ khác. Đây là
câu chuyện về một gia đ́nh, một gia tộc
rồi một dân tộc và cả nhân loại. Thiên Chúa can
thiệp vào lịch sử rồi sau đó mới cho
người viết lại lịch sử ấy
để giúp mọi người hiểu Ngài yêu thương
nhân loại và yêu thương mỗi người tới
mức nào.
Từ
câu chuyện gia phả, ta nên sớm giới thiệu cho
người ta quyển Kinh thánh, cả Cựu ước
và Tân ước, đồng thời tóm tắt cho họ
nội dung Kinh Thánh sau đây để họ có thể
đọc Kinh thánh với tâm trạng hồn nhiên của
một người đi t́m sự thật.
Thiên Chúa đầy t́nh yêu thương
đă tạo nên mọi loài mọi vật để chúng
chia sẻ sự tốt lành của Ngài. Cách riêng, Thiên Chúa
đặc biệt yêu thương con người. Ngài
đă tạo nên họ giống h́nh ảnh Ngài, ban cho
họ có khả năng nhận biết và yêu mến Ngài,
đồng thời đặt họ làm chủ mọi
thụ tạo trên trái đất để họ cai
trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Ngài.
Tiếc thay, con người không vâng
phục Thiên Chúa. Con người muốn đi t́m một
thứ hạnh phúc ngoài Thiên Chúa. Hậu quả là t́nh
nghĩa với Thiên Chúa bị cắt đứt, con người
phải xa ĺa Thiên Chúa, bị đau khổ, phân rẽ, và
cuối cùng là phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa đầy
yêu thương vẫn không bỏ mặc con người
trong nỗi tuyệt vọng. Ngài hứa sẽ ban
Đấng Cứu Thế đến để cứu
vớt con người.
Để thực hiện lời đă
hứa, Thiên Chúa đă chọn cụ Abraham để qua
ông, Ngài gầy dựng một dân tộc là dân Israel,
chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời.
Qua Môsê, Thiên Chúa đă cứu dân Israel khỏi ách nô lệ Ai
cập, trong biến cố Vượt qua và Xuất hành, cũng qua Môsê, Thiên Chúa c̣n ban cho
dân Israel Giao ước và Lề luật để họ
trở thành dân riêng của Ngài. Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa
dạy dỗ họ đón nhận Đấng Cứu
Thế.
Khi tới giờ đă định, Thiên
Chúa đă cho Đấng Cứu Thế ra đời. Chúa
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, chính là Con Một
của Thiên Chúa đă trở thành con người để
làm cho ta trở thành con Thiên Chúa. Ngài đă đến
sống giữa chúng ta để cho ta biết t́nh
thương của Chúa Cha và để dẫn đưa
chúng ta về cùng Chúa Cha trong một gia đ́nh là gia đ́nh
con cái Thiên Chúa, tức Hội Thánh. Ngài đă chết
để hoà giải ta với Thiên Chúa, và đă sống
lại để ban cho ta sự sống mới làm con Thiên
Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha và
Chúa Giêsu đă gửi Chúa Thánh Thần đến,
để hướng dẫn Hội Thánh tiếp tục
công việc của Chúa Giêsu, mà đem ơn cứu rỗi
đến cho mọi người bằng lời rao
giảng và việc cử hành các bí tích. Chúa Thánh Thần
ở với ta, làm cho ta được kết hợp nên
một với Chúa Giêsu. Ngài soi sáng và thúc đẩy ta
sống mến Chúa yêu người như Chúa Giêsu dạy,
để ta xứng đáng là con cái Cha trên trời, theo
như chương tŕnh yêu thương mà Thiên Chúa đă dành
cho ta.
Cùng với mọi
người trong Hội Thánh, ta góp phần hoàn tất lịch sử, đợi
ngày Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang
của Ngài và của những
người được cứu chuộc. Ngày ấy Chúa
Giêsu sẽ tiếp thu mọi sự, biến
đổi thành vũ trụ mới mà dâng lên Thiên Chúa Cha.
Qua ba giai đoạn mặc khải,
dần dần ta được biết Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng nhờ Thiên Chúa
mặc khải, ta biết Ba Ngôi khác nhau ấy hợp
nhất thành một Thiên Chúa mà thôi. Đó là mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kinh Thánh không phải là một quyển
sách giáo khoa nêu nguyên tắc rồi hướng dẫn áp
dụng thực hành. Nó là quyển sách ghi lại công tŕnh
t́nh thương của Thiên Chúa, qua một lịch sử
chưa hoàn thành nhưng đă có đoạn kết. Nó
được h́nh thành từ cuối thế kỷ 13
trước Công nguyên và kết thúc đầu thế
kỷ thứ hai sau Công nguyên, do hằng trăm ng̣i bút
thuộc những tŕnh độ và thời đại khác
nhau họp lại, mà đọc xong lại thấy từ
đầu tới cuối hết sức thống nhất,
chẳng khác nào một tác phẩm do cùng một
người phác thảo và thực hiện, do cùng một
người đề ra ư chính, các phần đoạn
của thân bài rồi viết từ nhập đề
đến kết luận.
Điều đó cho thấy Kinh Thánh
được thực hiện do một tác giả
thần linh vượt trên toàn bộ lịch sử. Tác
giả đích thật ấy là chính Thiên Chúa, c̣n tất
cả những người đă cống hiến tài
năng chấp bút diễn tả chỉ là những
dụng cụ.
Một khi đă quen, bạn sẽ
từ câu chuyện đang nói để chuyển sang Kinh
Thánh rồi lại từ Kinh Thánh chuyển sang cuộc
kiếm t́m của bạn và người đồng
tộc.
Trong lịch sử,
việc thờ cúng tổ tiên theo truyền thống
Việt
Thà đui giữ
lấy đạo nhà,
C̣n hơn có mắt
ông cha không thờ.
Đang khi đó
người Công Giáo th́ chọn lựa ngược lại.
Có đến trên 130.000 Kitô hữu đă chấp nhận
chết v́ dành cho đạo hiếu đối với Cha
Cả trên trời sự ưu tiên vượt trên
đạo hiếu đối với tổ tiên
dưới đất.
Phía trên bàn thờ gia
tiên của nhiều gia đ́nh Công Giáo có trưng bày ảnh
các Thánh Tử Đạo Việt
Trước kia, khi
các vị Tử Đạo Việt Nam chưa
được tuyên phong hiển thánh, chỉ có một
lời nguyện cho nội bộ Giáo Hội Việt Nam,
vỏn vẹn ba ḍng nhưng hết sức sâu sắc
về Đạo Hiếu. Trong dịp phong thánh, khi viết
bộ lễ Các Thánh Tử Đạo Việt
"Lạy Chúa, Chúa
đă làm cho xuất hiện trên toàn cơi Việt
Chỉ vài ḍng
ngắn ngủi đủ ghi lại cả một lịch
sử bi hùng và lư do sâu xa nhất cho việc tuyên xưng
đức tin của người Công Giáo Việt
Không hiểu tại
sao lời nguyện ấy lại khác với lời
nguyện trong sách lễ Rôma tiếng Anh và tiếng Ư, có
thể dịch như sau: "Lạy Thiên Chúa là nguồn gốc
mọi t́nh phụ tử, Cha đă giữ cho Thánh Anrê và các
đồng bạn tử đạo được trung
thành với thập giá của Con Cha đến đổ
máu đào. Nhờ lời các ngài chuyển cầu, xin cho
chúng con biết tỏa chiếu t́nh yêu Cha giữa anh
chị em chúng con để chúng con đáng được
gọi và thực sự là con cái Cha." (Lời nguyện
số 3)
Đang khi
tưởng nhớ các vị tuẫn đạo Việt
Nam, Giáo Hội cầu nguyện cho mọi dân tộc
nhận biết Thiên Chúa tuyệt đối là Cha thật
duy nhất của mọi người và là nguồn gốc
mọi t́nh phụ tử trên trời dưới
đất. Lời nguyện số 1 trên đây vừa
đầy ắp kỷ niệm về Đạo Hiếu,
vừa vạch ra được một linh hạnh cho
người Việt và cả một trách nhiệm rất lớn
với hai chiều kích: Phải sống thật tuyệt
vời cả về đạo hiếu trần gian lẫn
đạo hiếu trên trời, để giúp cho cả
đồng bào người Việt lẫn các dân tộc
trên thế giới nhận biết t́nh cha của Thiên Chúa.
Ước ǵ hạt ngọc quư báu ấy sớm
được đem lại vào phụng vụ, ít ra là cho
giờ Kinh Chiều I.
Tới đây cũng
xin nhắc đến một đóng góp khác rất đáng
trân trọng đă bị quên mất, cần
được phục hồi. Nơi các Kinh nguyện Thánh
Thể (Kinh tạ ơn) trong bản dịch Sách Lễ Rôma
1992 có hai điểm khác hẳn bản dịch
trước đó:
- Khi thưa với
Ngôi Cha, mọi chữ "Domine" đều
được chuyển thành "Cha" thay v́ dịch sát
chữ là "Chúa".
- Ở lời nguyện cầu cho
kẻ chết của các Kinh nguyện Thánh Thể 1, 2 và 3
đều có thêm mệnh đề: "Đặc
biệt xin Cha nhớ đến các bậc Tổ tiên và thân
bằng quyến thuộc chúng con đă ĺa cơi thế".
Đó là hai đóng góp
của linh mục đoàn Giáo phận Kontum được
Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN lúc
ấy tiếp nhận. Nay trong bản dịch (xxxxx)
đóng góp thứ hai vẫn c̣n được duy tŕ, c̣n
đóng góp thứ nhất bị quên mất. Thiết
tưởng đây là một đóng góp hết sức ư
nghĩa, có tác dụng lớn trong việc loan báo Tin
mừng và xây dựng ḷng
đạo cho Dân Chúa.
Chúa dạy hăy đi
khắp thế giới loan báo Tin mừng. Do đó, việc
loan Tin mừng không khép kín lại với một nhóm
người cùng Ḍng họ, nhưng nhóm người ấy
chỉ đóng vai một nhúm men giúp cả khối bột
dậy men. Gạch nối để Tin mừng lan từ
họ này sang họ khác là những người con dâu và con
rể, những người có quan hệ thông gia.
Các gia đ́nh cũng
như cộng đoàn giáo xứ cần quan tâm đào
tạo cho con em ḿnh có một đức tin đầy
bản lănh, thấm đều mọi mặt cuộc
sống, để khi họ lên đường về nhà
chồng hoặc nhà vợ, họ thực sự là
những chứng nhân của Hội Thánh Chúa. Nhiều cha
mẹ người lương thích cho con cái lập gia
đ́nh với người Công giáo bởi họ thấy
đa số người Công giáo chung thủy trong hôn nhân.
Thế nhưng đă có một số trường hợp
rất đáng tiếc, chính bên người Công giáo gốc
thiếu thiện chí, khiến hôn nhân tan vỡ. Những
trường hợp đau ḷng ấy đ̣i hỏi chúng ta
phải nghiêm túc kiểm điểm lại việc giáo
dục đào tạo của chúng ta. Cần giúp bạn
trẻ đi sâu vào cầu nguyện để có
được đức tin, đức cậy và
đức mến nồng nàn mănh liệt, nhờ đó, dù
phải qua đau thương thử thách tới đâu
vẫn quyết một ḷng trung thành với Luật Chúa
dạy và làm chứng cho Chúa.
Thực tế
của quá khứ cho thấy rất đông những
người theo Đạo để lập gia đ́nh có
một đức tin không sâu và không bền, khiến
nhiều phụ huynh Công giáo ái ngại khi thấy con em ḿnh
thương người ngoài Công giáo. Tuy nhiên không thiếu
những trường hợp những người trở
lại trong dịp kết hôn lại có một đời
sống đức tin c̣n mẫu mực hơn nhiều
người Công giáo đạo ḍng. Sự khác biệt
thật ra là do cách đào tạo và chăm sóc. Thành kiến
xem thường ơn đức tin của người
trở lại nhân dịp kết hôn, có thể khiến
người ta dạy giáo lư cách sơ sài vội vă cho xong
chuyện. Nhiều bậc phụ huynh cố ngăn
cản t́nh duyên của con cái ḿnh, cho tới lúc không ngăn
cản được nữa, nhượng bộ cho con
cái th́ thời giờ học giáo lư không c̣n nhiều. Thêm vào
đó, chuyện tin ngày giờ tốt xấu, kiêng kị
tuổi tác nhiều khi cũng khiến người ta
tiến hành hôn nhân vội vă, không kịp học giáo lư cho
thật sâu.
Chúng ta cần nh́n
vấn đề dưới ánh sáng đức tin.
Nếu một sợi tóc trên
đầu ta rơi xuống không ngoài ư Chúa th́ sự
kiện ánh sáng Tin mừng đến với rất đông
bạn trẻ qua con đường hôn nhân không phải là
chuyện ngẫu nhiên. Đó là những nén bạc quư báu
Chúa đang trao cho Giáo hội ở thời đại này,
mọi thành phần Dân Chúa đều cần biết trân
trọng góp phần sinh lợi, không để một nén
bạc nào bị vùi lấp oan uổng.
Các bậc làm cha
mẹ cần biết tin cậy vào t́nh thương Thiên
Chúa, trân trọng ơn đức tin Chúa đang ban cho
người con dâu hay con rể của ḿnh và tôn trọng sự
chọn lựa của con cái, để ứng xử sát
thực tế hơn. Một khi thấy con cái đă
quyết, cha mẹ cần sớm chấp thuận và
hướng dẫn cho việc học giáo lư được
tươm tất và đức tin kịp thấm sâu và
nẩy nở.
Các vị dạy giáo
lư cần vững tin vào ơn Chúa, dù thời gian rất
ngắn cũng đừng vội vă. Hăy bước
những bước đầu thật chính xác và chắc
chắn. Hăy mở đầu bằng việc giúp học
viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha, và cứ như thế
cho tới lúc họ thực sự cảm nghiệm
rằng Cha đang ở trong họ, đang ủ ấp
họ và đang dẫn dắt họ trên mọi
bước đường. Đức tin đến
từ sự gặp gỡ Thiên Chúa cách thân t́nh và
đầy yêu mến, chứ không đến do sự
nhồi nhét một mớ hiểu biết. Những
hiểu biết giáo lư rất quan trọng và cần
thiết, nhưng ta đừng vội. Một khi học
viên bắt đầu nếm cảm được Chúa,
chính họ sẽ kiếm t́m và chỉ một khám phá
nhỏ họ nhận được dưới ánh sáng
của Chúa đủ khiến họ miệt mài trên
đường theo Chúa. Các vị hăy sớm trao Kinh Thánh vào
tay học viên và giúp họ khám phá từng chút một
bằng sự suy nghĩ, cầu nguyện và đổi
mới đời sống theo Lời Chúa. Cũng hăy
mạnh dạn khuyến khích học viên chia sẻ ơn
họ đang nhận được với đồng
bạn trong lớp giáo lư và cả với những
người chưa tin. Một đức tin
được chia sẻ sẽ tựa như lửa, cháy
lan và cháy bùng lên.
Một thiếu sót
lớn của cộng đồng Công giáo Việt
Tệ hơn nữa,
khi các bạn trẻ muốn mua một quyển sách thích
hợp để tặng cho bạn trai hoặc bạn gái
của họ, th́ không biết t́m ở đâu. Giáo hội
Phật giáo có một tổ in ấn và phát hành thuộc
thành hội TPHCM và từ đó sách vở Phật giáo lan
tỏa đến mọi miền đất nước.
Giáo hội Cao Đài cũng có một hệ thống phát
hành tương tự. Phải chi Giáo hội Công giáo
Việt Nam có một cơ sở tổng phát hành, rồi
mỗi Giáo hạt có một bộ phận cung ứng sách
cho các giáo xứ trong Hạt, các bạn trẻ sẽ
dễ dàng trao tặng cho bạn bè của họ những
băng đĩa và sách vở giới thiệu Tin mừng
với h́nh thức thích hợp với tuổi trẻ.
Họ có thể thành tông đồ cho những người
bạn chưa tin, rồi những người bạn này
khi đă được ơn đức tin, lại thành
chứng nhân giữa gia đ́nh và gia tộc của ḿnh. Đây
là trách nhiệm của các hội doanh trí tại các giáo
phận. Điều Dân Chúa đang mong chờ nơi các
hội doanh trí có lẽ không chỉ là đóng góp xây thêm nhà
thờ nhưng là sự suy tư, động năo và tích
cực góp phần thiết thực để đào
tạo cho Giáo hội những chứng nhân trẻ giàu tâm
huyết và khả năng, mà trước mắt là cung
ứng dồi dào thức ăn tinh thần cho họ.
Nếu quư vị băn khoăn t́m một dự án tông
đồ mang tính trí thức, tôi nghĩ dự án ưu tiên
nhất cần được chọn là xây dựng cho Giáo
phận của quư vị một hệ thống phát hành
sách.
Tuy nhiên trách nhiệm
lớn nhất trong việc đào tạo người
chứng trẻ thuộc về các mục tử. Khi
một cha sở giành lấy cho ḿnh việc chăm sóc những
tín hữu mới, chắc hẳn ngài sẽ có hàng ngàn sáng
kiến. Năm 1990 khi được gặp Đức Cha
Phaolô Maria Phạm Đ́nh Tụng tại Bắc Ninh,
rồi mấy năm sau được thăm ngài tại
Ṭa Tổng giám mục Hà Nội, tôi rất cảm kích v́
chính ngài đích thân lo cho các dự ṭng trí thức. Tôi
cũng gặp được một bản sao y hệt
nơi người kế vị ngài là Đức Cha Giuse
Maria Nguyễn Quang Tuyến. Cả hai vị đều là
bản sao của nhóm 12 Giám mục thuở ban đầu,
và hơn nữa, bản sao của chính Chúa Kitô, Đấng
đă thức thâu đêm để trao đổi với
một người trí thức là Nicôđêmô. Rồi cả
khi đă mỏi mệt v́ đường xa, ngồi
bệt bên bờ giếng, Ngài không ngại dành bận tâm
cho một phụ nữ đến lấy nước
ở đó. Điều an ủi là cả hai đều
đă trở thành những chứng nhân cho Ngài…
Tiếp tục
đề tài đào tạo những người chứng
trẻ trên đường loan Tin mừng cho Ḍng họ, tôi
xin lưu ư quư giảng viên giáo lư thêm một chút về
việc dùng sách giáo lư, để học viên thấy rơ ḿnh
đang được đón nhận một Tin mừng
tươi mới và diễm phúc, thay v́ xem việc học
giáo lư như một gánh nặng bất đắc dĩ.
Ngày nay khoa sư
phạm giáo lư dự ṭng đă đúc kết
được những lược đồ khác nhau cho tiến
tŕnh dạy/học giáo lư dự ṭng: lược đồ
kinh Tin kính, lược đồ Lịch sử cứu
rỗi, lược đồ Phụng vụ, lược
đồ Tin mừng. Đó là những kinh nghiệm
thuận lợi cho việc đào tạo đức tin.
Đang khi ấy, các bản hỏi đáp, cũng gọi
là sách bổn (sách phần, sách thiên) hay sách giáo lư xưa nay
thường chia nội dung giáo lư thành bốn phần: tín
lư, luân lư, bí tích và cầu nguyện. “Bản hỏi thưa
Giáo lư Hội Thánh Công Giáo” do Ủy ban Giáo lư Đức Tin
thực hiện năm 2013 cũng thế. Cấu trúc
ấy dễ khiến người ta hiểu lầm
rằng dạy/học giáo lư cũng giống như
dạy/học những kiến thức. Việc chia thành
bốn phần rất thuận lợi để dùng sau khi
học xong giáo lư, để ghi nhớ những điều
đă học theo một hệ thống có thứ tự
lớp lang, nhưng nó không được sắp xếp
theo những bước phát sinh và nẩy nở của
đức tin. Muốn giúp đức tin nẩy nở và
lớn lên cách thuận tự nhiên, nên tŕnh bày theo những
giáo tŕnh biên soạn cho các dự ṭng, không nên dạy
tuần tự từng câu theo sách hỏi đáp. Nói cách khác,
nên tŕnh bày theo từng bài trong sách dự ṭng rồi cuối
bài cho ghi nhớ bằng các câu tương ứng trong sách
giáo lư hỏi đáp.
Bốn sách Tin
mừng là bốn quyển giáo lư đầu tiên của
Hội Thánh cho thấy rơ việc dạy giáo lư không phải
là truyền đạt kiến thức nhưng phải là đào
tạo cho người tín hữu mới có được
một đức tin sâu xa.
Với bối
cảnh văn hóa nặng tính Đạo Hiếu tại
Việt Nam, thiết tưởng lược đồ
của sách Tin mừng Luca, cũng có thể gọi là lược
đồ Kinh Lạy Cha, dễ giúp người tín hữu
mới tiếp cận và đào sâu giáo lư Đạo Chúa cách
hồn nhiên, và sau đó dễ chia sẻ lại với anh chị
em và bà con trong ḍng họ. Thật vậy, Tin mừng Luca
khởi đầu với khung cảnh gia đ́nh và gia
tộc (x. Lc 1,5.36.39-45.57-66), với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa
Tối Cao (x. Lc 1,35), Đấng đến để lo
việc của Chúa Cha và ở lại trong nhà Cha (x. Lc 2,49),
Đấng thuộc về đại gia đ́nh nhân
loại, gia phả Ngài phăn ngược lên đến
tận cội nguồn đầu tiên (x. Lc 3,23-38), Ngài luôn
sống đẹp ḷng Cha, Ngài nêu rơ bước tiến
từ quan hệ huyết thống đến quan hệ
Nước Trời (x. Lc 8,19-21; 9,57-61; 12,51-53), Ngài dạy ta cầu nguyện
với Thiên Chúa là Cha (x. Lc 11,1-4),
dạy ta tin tưởng vào t́nh Cha quan pḥng của
Thiên Chúa (x. Lc 12,22-32). Nổi bật nhất là câu chuyện
về t́nh Cha (x. Lc 15,11-32) và tâm t́nh của Chúa Giêsu trên
thập giá phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha (x. Lc 23,46).
Dạy giáo lư theo Kinh
Lạy Cha có nghĩa là mời gọi học viên ngỏ
lời với Thiên Chúa là Cha ngay từ khi mới tiếp
nhận những thông tin đầu tiên về Ngài, như
con nhỏ thưa chuyện cùng Cha ḿnh, với hết t́nh
con thảo. Phần tín lư là câu chuyện t́nh thương
của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, dành cho chúng
ta. Câu chuyện này được kể chủ yếu
với Tin mừng theo Thánh Luca và bổ sung bằng các sách
khác: Chúa Cha mặc khải cho những người bé
mọn (Lc 10,21), Chúa Cha và Chúa Con (Lc 10, 22), T́nh Cha quan pḥng (Lc
12,22-32), giàu ḷng thương xót và tha thứ (Lc 15,12-32). Ngài
là Cha Đức Giêsu Kitô (Lc 21,41-44), đă trao Vương
quốc cho Con ḿnh (Lc 22,28-30), Đấng luôn làm theo ư Cha (Lc
22,41-44), phó thác mọi sự trong tay Cha (Lc 23,46) và là
Đấng đă làm cho Đức Giêsu từ cơi chết
sống lại (Lc 24,46) và ban Thánh Thần cho môn đệ
(Lc 24,48). Chúa Giêsu Kitô đă chết và sống lại
để quy tụ Gia đ́nh con cái Thiên Chúa là Hội Thánh.
Đời sống
luân lư tập trung vào nghĩa vụ của người con
Thiên Chúa, với điều răn lớn nhất là
mến Chúa yêu người (Lc 10,25-28), và “hăy có ḷng nhân
từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 7,36).
Một khi biết được có Đấng Tuyệt
Đối đang âu yếm dơi nh́n ta mọi nơi mọi
lúc, th́ dù không được ai ở đời này khen
thưởng hay nh́n nhận, ta vẫn luôn sống xứng
đáng là con cái của Ngài. Với sự quảng
đại ấy, dần dần người ta sẽ
được ơn nhận biết rằng "vị
Thiên Chúa ấy đă yêu thế gian đến nỗi đă
ban tặng Con Một Ngài để tất cả những
ai tin vào Người Con ấy th́ không bị hư mất
nhưng được sống đời đời" (Tin
mừng theo Thánh Gioan 3,16). Chính Người Con ấy đă
đến trần gian để dạy ta biết làm con
cái trong gia đ́nh trần thế và làm con của Trời
Cao. Từ chỗ là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Ngài đă
trở nên "Con của người", "Con của
nhân loại" và cũng là người con hiếu
thảo trong một gia đ́nh (x. Luca 2,51) để ban cho
nhân loại Tinh Thần của ơn nghĩa tử,
tức là Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng dạy
cho mỗi người biết sống như con thảo
của Cha trên trời. Bốn biển chỉ có thể là
anh em một nhà khi cùng nh́n nhận một Người Cha
duy nhất, quy tụ quanh một Người Con duy
nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha, là
Đức Giêsu Kitô, được Cha sai đến
trần gian làm Đấng Cứu Độ duy nhất
của nhân loại, hôm qua cũng như hôm nay và như
vậy măi đến muôn đời (x. Thư Hípri 13,8).
Các bí tích là những
nhịp sống của người con Thiên Chúa, từ khi
được tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Lc
3,16) cho tới ngày trở về với Thiên Chúa.
Trong chương tŕnh
Giáo lư Dự ṭng, sau khi nói về mạc khải, nên tŕnh bày
ngay bài học về Đạo Hiếu và việc thờ
cúng Ông Bà theo quan điểm Công giáo, để hóa giải
thắc mắc về điểm này ngay từ đầu,
trước khi đi vào toàn bộ mạc khải.
Như đă nói,
dạy giáo lư không chỉ là truyền đạt những
hiểu biết về Thiên Chúa và chương tŕnh t́nh
thương của Ngài, nhưng là dẫn vào một
nếp sống mới, dưới sức tác động
của Chúa Thánh Thần, tức là sống theo linh
đạo của người làm con Thiên Chúa. Nói một
cách giản dị, đó là sống theo Kinh Lạy Cha.
Ngày nay ở Việt
Nam dường như sự phục hưng tinh thần gia
tộc, với việc xây dựng từ đường,
tôn tạo mồ mả cha ông đi đôi với sự
phát triển những tin tưởng về phong thủy.
Ngoài việc xem phương hướng, coi ngày giờ,
người ta c̣n dùng những đồ vật trấn
phong thủy như la kinh, la bàn, đá phong thủy
đồ thị, đồng tiền cổ của các
đời vua, xương thú vật, cẩm thạch,
đá thạch anh, bùa chú, châu sa thần sa… Các cửa hàng
phong thủy lớn nhỏ mọc lên nhan nhản ở các
thành phố, với những món hàng giá lên đến vài
chục triệu đồng, cũng có những món hàng cao
cấp lên đến tiền tỉ. Nhưng phần
lớn các món hàng phổ thông được bán với giá
vài trăm ngàn đồng tới vài chục triệu
đồng là bán chạy nhất và nhiều người
ưa chuộng hơn cả. Trước đây việc
phát huy Tây học, cuộc vận động của Tự
Lực Văn Đoàn và các tác giả cùng thời cũng
như ảnh hưởng Kitô giáo qua môi trường giáo
dục đă đẩy lùi các tin tưởng và thực
hành phong thủy, nhưng vài chục năm trở lại
đây người ta lại đua nhau chạy theo phong
thủy, mong nhờ đó mà ḿnh và con cháu làm ăn phát
đạt.
Thách đố
lớn trong việc loan Tin mừng cho người cùng Ḍng
họ, là nêu lên được tính lừa dối của
quan niệm phong thủy. Chính các con cái Chúa phải
bước đi vững vàng trong tinh thần siêu thoát và
giúp các tín hữu mới bước đi như thế,
thoát khỏi năo trạng ham mê tiền bạc vật
chất. Muốn vậy, cần giúp họ xác tín và sống
mănh liệt các ư lực của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha giúp
người tín hữu thoát ra khỏi chính ḿnh. Những ư
nguyện nơi phần thứ nhất của kinh này
dạy ta đặt mục đích đời ḿnh nơi
Thiên Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Ư
nguyện của phần thứ hai nhắc ta sống phó thác
vào t́nh thương quan pḥng của Thiên Chúa. Chính trên
những cơ sở ấy mà ta có thể sống yêu
thương, hiệp thông, tha thứ và quên ḿnh v́ ích chung (x.
Mt 6,25-34).
Để chữa
lành bệnh dịch bạo lực và gian dối đang lan
tràn hiện nay, cần phải giúp mọi người
nhận ra ḿnh là con cái của Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao
và là anh em của mọi người. Nếu không biết
đến vị Cha Chung đầy nhân ái của muôn loài,
Đấng thấu suốt cơi ḷng và ân thưởng cả
những điều quảng đại bé nhỏ nhất
(x. Mt 10,41-42) th́ quả là khó mà quảng đại quên ḿnh
v́ ích chung. Ích chung đ̣i phải quên lợi riêng, cho nên ai
cũng ngại. Nhờ nhận biết ḿnh là con Thiên Chúa,
người tín hữu sẽ quả cảm sống tinh
thần v́ ích chung, bắt đầu từ chính ḿnh. Chính
tinh thần v́ ích chung sẽ giúp ta dám sống công bằng và
chân thật, là những giá trị đang trở nên
hiếm hoi giữa một xă hội đang quay cuồng
chạy theo vật chất.
Muốn xây dựng
một thế hệ hào hùng, thượng vơ và quả
cảm quên ḿnh v́ đồng loại, trước hết
cần dạy cho họ biết hiếu thảo với Cha
Cả trên trời, Đấng đang liên lỉ ngỏ
lời với con cái ḿnh cách thầm lặng nơi
lương tâm họ. Việc giáo dục này chúng ta có
thể thực hiện được bằng cách cố gắng
thêm một chút để sống trọn lư tưởng
hiệp thông của Tin mừng và chia sẻ với các tín
hữu mới lư tưởng chính chúng ta đang sống.
Đây là vấn đề và thách đố đặt ra
không phải cho những người đồng tộc
nhưng là cho cộng đồng tín hữu Công giáo, ở
b́nh diện giáo xứ cũng như giáo phận. Với
kinh nghiệm bản thân về giáo hội Việt
Tôi đă giữ
được một kỷ niệm rất êm đềm
và thánh thiện về Đà Lạt, là đă
được sống tại đó trong thời gian giáo
phận này được chuyển ḿnh triệt để
nhờ mọi người cùng nhau suy tư, cầu
nguyện và tập sống theo khôn mẫu Giáo đoàn
Giêrusalem tiên khởi. Hiệp thông, quả là Nước
Trời giữa trần gian, dĩ nhiên là đang c̣n bất
toàn với bao đấu tranh cần thiết. Tiếp
đó, cuối năm 1990, được về Bắc Ninh
và Phát Diệm, rồi những năm sau đó
được trải qua một vài tuần chầu
lượt tại Giáo phận Vinh, tôi được nh́n
thấy thêm một phiên bản thực hành, không cần lư
thuyết.
Về sau, tôi c̣n
được nh́n thấy sự thể hiện t́nh
hiệp thông tuyệt vời tại đơn vị hàng
xóm: Giáo phận Kontum. Tại những nơi tôi có dịp sống
và làm việc như Nha Trang, Sài G̣n, cũng như tại
Giáo phân mẹ Qui Nhơn, tôi vẫn luôn được
đầy an ủi do t́nh hiệp thông của bề Trên
cũng như của anh em chung quanh. Tuy nhiên, cung cách thể
hiện của cộng đoàn Công giáo tại Kontum, như
tôi được nghe và được thấy, quả là
một bảo chứng để khẳng định
rằng lư tưởng hiệp thông trong Công vụ Tông
đồ là điều khả thi ngay ở thời
đại này và theo cách của thời đại này. Tôi
chỉ được thấy Đức Cha Paul Seitz
một vài lần. Tôi chỉ được gặp gỡ
nói chuyện với Đức Cha Alexis Phạm Văn
Lộc và Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung một vài
lần, c̣n Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh và anh em
linh mục Kontum th́ nhiều lần hơn. Điều
khiến tôi xúc động là qua đó khuôn mẫu của
các vị Thừa Sai nghèo, quên ḿnh cho Tin mừng và cho Dân chúng
vẫn c̣n được “sao y bản chánh” cho đến
nay. Hiệp thông và hiệp nhất, quả là sức hút và
chất men của Nước Trời.
Loan Tin mừng qua con
đường ḍng họ không chỉ là chuyện có tính
giai đoạn nhân kỷ niệm 50 năm huấn thị
“Plane compertum est”. Lệnh truyền của Chúa là loan báo Tin
mừng đến tận cùng thế giới, từ
thế hệ này qua thế hệ khác cho tới ngày Chúa
lại đến. Như thế, vai tṛ các thế hệ
trẻ rất quan trọng.
Nơi phong trào t́m
nguồn cội của người lương cũng
như người giáo, thoạt đầu, chỉ
những người về hưu mới quan tâm. Nay
giới phụ huynh trẻ 35-45 tuổi bắt đầu
nhập cuộc nhiều. Những người trẻ
hơn thường ít bận tâm hơn. Do đó, cần
nỗ lực đào tạo ư thức cội nguồn cho
thế hệ trẻ.
Trước t́nh
cảnh sự học sa sút, năm 1990, chúng tôi đă
thiết lập việc khuyến học trong phạm vi gia
tộc, lấy ngày giỗ ông nội làm "ngày truyền
thống gia tộc" đồng thời cử hành ngày
này theo dương lịch cho các bạn trẻ dễ
nhớ.
Một số phụ
huynh trẻ thấy chương tŕnh khuyến học khá
hữu ích, tích cực theo đuổi và việc phát
thưởng nhân "ngày gia tộc" vẫn tiếp tục
cho tới ngày nay. Trong ngày này chúng tôi ưu tiên quy tụ các
cháu nhỏ, không mời người ngoài, chỉ tập
trung lo xây dựng trong nội bộ. Giá trị vật
chất của các phần thưởng không đáng kể
nhưng vẫn là một cái ǵ háo hức đối với
các cháu mẫu giáo và các lớp nhỏ. Ngày gia tộc
cũng lôi cuốn với các học sinh lớn nhờ
đó là dịp để các cháu đi chơi. Do chúng tôi
không có từ đường, ngày này được tổ
chức lưu động tại bất cứ gia đ́nh
nào đăng cai tổ chức. Cả những gia đ́nh
trẻ và cả những cháu ngoại cũng
được quyền đăng cai tổ chức. Nhà
nào lo giỗ năm sau sẽ rước di ảnh Ông Bà
về lo hương khói trong một năm. Bù lại trong
năm mọi người được nhắc nhở
cầu nguyện cho gia đ́nh ấy. Như thế chúng tôi
có một từ đường lưu động hằng
năm, đi theo di ảnh Ông Bà. Các gia đ́nh trong ḍng
tộc chúng tôi ở tại ba tỉnh miền Trung và
cả ở Sài G̣n, hằng năm các cháu đều có
dịp quy tụ ở những địa phương khác
nhau. Hơn nữa, dù tổ chức ở đâu, ngoài thánh
lễ, buổi phát thưởng và bữa ăn gia tộc,
c̣n có chương tŕnh dă ngoại hoặc du lịch tham
quan. Thêm vào đó, v́ không có ruộng hương hỏa
hoặc một nguồn lợi tức nào để chi dùng
cho việc gia tộc, chúng tôi xây dựng quỹ
hương hoa bằng sự quyên góp hằng năm, ngay
trong ngày gia tộc. Một phần được giữ
lại cho quỹ học bổng, một phần
được giao cho gia đ́nh đăng kư tổ
chức ngày gia tộc năm sau.
Trong cuộc họp
mặt đầu tiên về gia phả ḍng họ năm
1996 tại hội trường Viện Sử Học Hà
Nội, nhiều đại biểu cũng tỏ ra
đồng cảm với điều tôi chia sẻ. Tôi
lưu ư mọi người rằng t́m lại quá khứ là
để phục vụ tương lai. Trong thâm tâm
những người nhiệt thành với nguồn cội,
ai cũng biết rằng công việc của ḿnh
trước hết là nhằm ích lợi tinh thần cho con
cháu. Xu thế suy thoái đạo lư trên thế giới
thật đáng lo ngại: Phim ảnh bạo lực và t́nh
dục cộng với bao nhiêu tệ nạn khác của
văn minh hưởng thụ sẽ càng lúc càng phá hỏng
những nền móng của đạo đức cá nhân, gia
đ́nh và xă hội. Việc dựng lại gia phả, nêu
cao t́nh gia đ́nh và gia tộc là một phương thế
có thể góp phần hữu hiệu vào việc giáo dục
đạo lư cho con cháu. Từ góc nh́n của một linh
mục, tôi thấy ngày nay muốn chấn hưng đạo
đức cho lớp trẻ, chỉ riêng nỗ lực
của gia tộc hoặc của tôn giáo thôi không đủ,
cần có sự hợp tác của cả đôi bên. Chính v́
thế mà tôi tham gia nghiên cứu về gia phả ḍng
họ. Dù chưa thu thập được đầy
đủ các chi tiết cần thiết, dù c̣n bất toàn
và đầy hạn chế, bản gia phả vẫn là
một phương tiện có tác dụng rất lớn
trong việc đào tạo ḷng biết ơn tiền nhân,
gây ư thức tự trọng và tạo tinh thần cầu
tiến.
Gia tộc chúng tôi
cũng t́m cách để biến gia phả thành một
phương tiện thu hút sự chú ư của các cháu nhỏ
và đào tạo t́nh gia tộc cho các cháu. Xưa tại
Việt
Việc đào
tạo ư thức về Đạo Hiếu c̣n
được thực hiện qua việc hành hương
về nguồn cội. Năm 2005, kỷ niệm 50 năm
cuộc di cư, chúng tôi đă đưa các cháu về
cử hành ngày gia tộc tại gốc tổ Hà Tĩnh.
Một vài vị cao niên, một số phụ huynh trẻ
và một linh mục trong gia tộc dẫn đầu
đoàn hành hương về phát thưởng tại
một gia đ́nh ngoài ấy, dâng lễ tại nhà thờ
xứ và thắp hương niệm tổ tại từ
đương bên làng lương.
Nhà giáo Vơ Tá
Tương đang diễn giải cho các bạn trẻ
hành hương 2005 hiểu những nếp xưa
Cuộc kỷ
niệm 50 năm huấn thị Plane compertum est là dịp
để người Công giáo Việt
Cùng lúc, trước
t́nh cảnh việc học sa sút, nhiều gia tộc đă
tổ chức việc khuyến học cho con em; nhiều
từ đường được tôn tạo hoặc
xây mới; nhiều tác phẩm nghiên cứu riêng về
từng ḍng họ được ấn hành. Những
sự kiện từ dưới lên đă cộng
hưởng với các ban liên lạc hoặc Hội
đồng Ḍng tộc từ trên xuống, tạo nên
một luồng văn hóa lôi cuốn cả sự chú ư
của tổ chức UNESCO.
Vào Google và gơ: "gia
phả - ḍng họ - nguồn cội", chỉ trong 6
trang, ta đă đọc thấy 18 trang web riêng của các
ḍng họ:
trinhtoc.com,hovuvovietnam.com,donghoninh.wordpress.com,nguyendac.com,hophamlangnhuong.com,hodinhvietnam.com,hothaicamlo.info,hodangbinhnghi.com,hodovietnam.vn,hohoanghuynhvietnam.vn,hopham.org,mactoc.com,hokhuatvietnam.org,hothan.org,danggia.org,hotvietnam.org,dangtocvietnam.com,trandang.net
Ngoài những trang web
riêng các ḍng họ, có những trang web chuyên đề nghiên
cứu về gia phả hoặc lo dịch vụ làm gia
phả: www.giaphavietnam.com, www.phahe.vn,vanhoadongho.vn, ...
Ta có thể gơ t́m
"nguồn gốc họ ..." và dễ dàng t́m
được thông tin của cả những họ ít
gặp như họ Tŕnh, họ Lữ, họ Lại,
họ Thân, họ Kiều...
Gơ "ban liên lạc
(các) ḍng họ" hoặc "đại hội ḍng
họ...", ta c̣n khám phá ra rằng việc liên kết các
họ tộc không dừng lại trên các phương tiện
thông tin mà c̣n đi vào hoạt động thực tế khá
rầm rộ.
Phong trào liên kết
ḍng họ phát triển hết sức nhanh. Mở trang
mạng một ḍng họ nào đó và bấm vào “kết
nối” hoặc “liên kết”, ta sẽ thấy mỗi ḍng họ
không phải chỉ có một website… Đọc thử
một số thông tin, ta sẽ thấy chỉ dăm tháng
sau đại hội ḍng họ cấp tỉnh một
nơi nào đó, các đại hội cấp thành phố,
huyện và thị xă đă nối đuôi theo.
Phong trào có một
ưu điểm là vượt trên ranh giới địa
phương, không phân biệt lương giáo. Nếu
người Công giáo biết quan tâm nhập cuộc th́ đây
là cơ hội rất tốt để ḥa đồng với
bà con cùng ḍng họ.
Phong trào này thúc
đẩy người ta t́m dựng lại gia phả,
lập lại từ đường, tổ chức
lại các ngày giỗ chung (ở miền Trung gọi là
"tế hiệp"). Một số bà con ở thôn quê
cảm thấy an tâm v́ giờ đây đă có một
chỗ dựa, đă được thuộc về
một tổ chức sinh hoạt văn hóa, vừa mang tính
huyết tộc, vừa mang tính tâm linh. Cũng có thể v́
thế họ thấy không cần phải có một tôn
giáo... Đây cũng là điểm đáng cho các giới
chức Công giáo suy nghĩ khi theo đuổi ước
mơ chia sẻ Tin mừng với đồng bào.
Số nhà thờ ḍng
họ tân tạo ngày càng nhiều (“nhà thờ” là một
kiến trúc biệt lập, dành riêng cho việc thờ
phụng, phân biệt với “từ đường” là gian
thờ trong nhà vị trưởng tộc, thường có
tính cách hạn hẹp trong ṿng ba hay bốn đời). Trên
địa bàn tỉnh B́nh Định, từ đầu năm
đến giữa tháng 10-2013, chỉ riêng ḍng họ Vơ
đă có thêm ba nhà thờ mới, hai do bà con góp sức chung
công, một do những người khá giả trong gia
tộc… Cùng lúc, có những nhóm đồng tộc nghèo và ít
người, không sao làm nổi nhà thờ riêng. Có lẽ
chính cái nghèo ấy đang biến họ thành đối
tượng của ḷng thương xót Chúa: “Phúc cho anh em là
những kẻ nghèo khó, v́ Nước Thiên Chúa là của anh
em” (Lc 6,20). Chính Thiên Chúa là Cha nhân ái đang dành cho họ
một mái nhà chung, nhà thờ hay từ đường
trăm họ, nơi Ngài quy tụ dân nghèo của Ngài.
Trào lưu văn hóa
tâm linh này c̣n song đôi với sự bùng phát những tin
tưởng về phong thủy, dễ khiến
người lương thêm khép ḷng lại với Tin
mừng. Ngược lại, nó cũng ôm theo cả
những mâu thuẫn, khiến người ta lúng túng.
Nếu người Công giáo biết dấn thân nhập
cuộc kịp thời th́ đây lại có thể thành
một cơ hội mới của Tin mừng, cơ
hội để truyền giảng cho mọi người
nhận ra chỉ có một Thiên Chúa là Cha Chung, là Nguồn
Cội đích thật duy nhất.
Ngày truyền
thống từng ḍng tộc tại mỗi giáo xứ
sẽ tạo cơ hội để tập thể
đồng tộc Công giáo t́m hiểu ḷng tin và mối chân
t́nh của tập thể đồng tộc ngoài Công giáo
đối với Tổ tiên, và cũng là cơ hội
để chia sẻ ḷng tin với họ. Những cố
gắng cá nhân dễ rơi vào mỏi mệt, nhưng khi
biến thành ư chí tập thể, sẽ trở nên bền
bỉ lâu dài. Giữa một xă hội nhiều sức ép,
việc từng người tiếp nhận đức tin
lắm ngại ngùng, khi đức tin được
những người thân cùng chia sẻ, sẽ đầy
sức mạnh.
Nếu tại giáo xứ, ḍng
họ nào cũng cử hành một ngày truyền thống
ḍng họ ḿnh, người Công giáo sẽ có nhiều cơ
hội để gặp gỡ các đồng tộc ngoài
Công giáo và giúp họ gần gũi với giáo lư Đạo
Chúa. Đó cũng là cách thiết thực để
đền ơn đáp nghĩa Tổ Tiên.
Thật vậy,
tổ phụ các ḍng họ tại Việt
Ḷng tin của
người Công giáo và của anh chị em lương dân
nhiều điểm thoạt nh́n có vẻ giống nhau
nhưng thực ra vẫn khác biệt rất tinh vi. Ví
dụ niềm tin rằng tổ tiên từ bao đời
vẫn đang anh linh phù hộ cho con cháu. Người Công
giáo hiểu sự phù hộ này theo nghĩa Tổ Tiên
chuyển cầu cho con cháu trước Ṭa Thiên Chúa. Mỗi ngày ta đón nhận
biết bao ơn lành Thiên Chúa, từ cơm ăn,
nước uống, khí thở, ánh sáng mặt trời cho
đến sức khỏe, trí khôn, t́nh yêu và tự do;
cả tiền bạc vật chất cũng là ơn lành
của chính Thiên Chúa Tạo Hóa; Ngài ban tất cả cho ta
làm phương tiện để đáp lại t́nh
thương của Ngài mà sống cho nên người như
Ngài muốn. Tổ tiên xưa ăn ngay ở lành là nhờ
ơn Chúa và nay đang linh hiển hộ phù con cháu cũng
là nhờ ơn Chúa. Thử nghĩ xem, mai kia chúng ta chết
đi và mốt nọ cháu con ta thắp hương khẩn
cầu chúng ta phù hộ, chúng ta sẽ lấy quyền phép
nào và lấy từ kho tàng nào để trợ giúp chúng,
nếu không phải là lúc ấy chính chúng ta sẽ chuyển
cầu cho chúng trước mặt Cha trên trời
để Ngài ban ơn phúc cho chúng? Người ta quên
rằng chính Thiên Chúa Tạo Hóa đă xét xử và
thưởng phạt mọi thế hệ tổ tiên.
Chỉ những tổ tiên nào đang được
hưởng phúc với Thiên Chúa th́ mới có khả năng
chuyển cầu cho con cháu trước thánh nhan Ngài.
Do mê tín, người
ta thêu dệt h́nh ảnh một thế giới vô h́nh theo
mẫu thế giới hữu h́nh: mỗi ḍng họ có châu
quận riêng, chết rồi ai về châu quận nấy.
Quyển Lịch Vạn Niên bên Tàu liệt kê 510 châu quận
ở thế giới bên kia, chỉ gồm toàn những địa
danh bên Tàu, vậy th́ người Lào, người Campuchia,
người Úc, người Phi, người Mỹ chết
rồi đi đâu? Ngay cả người Tàu, chết
rồi sẽ về châu quận của cha hay của
mẹ? Rồi những người đă cải từ
họ này sang họ khác, sẽ đi về đâu? Những
chuyện ấy chẳng khác nào câu hỏi lẩm cẩm
của nhóm Sađốc xưa về chuyện dựng
vợ gả chồng bên kia thế giới (x. Mt 22,23-33).
Quỷ dữ hết
sức tinh quái. Xưa nó đă dám dùng lời Kinh Thánh
để t́m cách dẫn dụ Chúa Giêsu rời xa ư muốn
của Thiên Chúa Cha (x. Mt 4,6). Nay nó cũng dùng đủ các
chiêu bài hết sức tốt lành để dẫn dụ
người ta chối bỏ Thiên Chúa là Cha Chung. Trên
đường làm công tác nối kết Ḍng họ, tôi
được biết không ít những chuyện đau
buồn khá giống nhau. Có những nơi hầu hết bà
con đồng tộc đều tập trung sum họp
trong ngày tế hiệp nhưng riêng một nhóm nào đó, dù
có liên hệ gia phả rất rơ và rất gần, vẫn
không chịu về. V́ một lư do nào đó, ba bốn
đời trước đây, người đứng
đầu nhánh ấy đă tự tách ra, chẳng những
không c̣n về tế hiệp mà c̣n lưu truyền cho con cháu
những lư giải thiếu trung thực, đáng buồn,
vẽ nên h́nh ảnh không đẹp về gốc tổ.
Ở một chừng mực nào đó, khi chỉ quan tâm
tới những bậc Tổ tiên mươi đời
trở lại đây mà lăng quên Nguồn Cội đích
thật và đời đời, người ta cũng
đang theo đuổi một sự chia cắt đáng
buồn như thế.
Trực giác về
sự "quy tiên" (chết là về với tổ tiên
nguồn cội) sẽ rực sáng lên khi người ta
nhận biết Đấng Tối Cao là cội nguồn
cuối cùng, duy nhất và đích thực, đồng
thời cũng là đích điểm cuối cùng mọi
loài phải vươn tới. Mọi thế hệ tổ
tiên đều đă, và mọi thế hệ con cháu
đều sẽ trở về với nguồn cội cao
nhất, từ đó loài người đă phát xuất ra
(x. Ga 13,3). Chỉ một ḿnh nguồn cội ấy,
chỉ một ḿnh Thiên Chúa Chí Thánh, mới đáng cho ta yêu
kính hết dạ hết ḷng và nhiệt thành phụng
sự đến hy sinh mạng sống. Mọi thụ
tạo, cá nhân cũng như tập thể, đều có
thể khiến những kẻ dấn thân phụng sự
nó bị vỡ mộng, chỉ một ḿnh Thiên Chúa mới
hoàn toàn trung tín, không để cho kẻ tin thờ Ngài
phải thất vọng bao giờ.
Những hạn
chế về gia phả sẽ giúp ta vượt khỏi
tầm mức bé nhỏ cục bộ để
vươn tới t́nh huynh đệ đại
đồng... Những hạn chế trên đường
về nguồn cội sẽ thức tỉnh ta hướng
về cội nguồn cuối cùng và đích thật.
Tới đây, tôi xin
phép được chia sẻ một vài kinh nghiệm
rất riêng, để anh chọ em đồng đạo
có thêm chất liệu cụ thể, tiện đối
chiếu, suy tư và t́m kiếm trong lănh vực ḍng họ.
Ngày đất
nước thống nhất, tôi được 28 tuổi.
Việc thống nhất tạo thuận lợi cho
việc đoàn tụ nhiều gia đ́nh và gia tộc. Tôi
quan tâm t́m sao chép lại bản gia phả đă
được cụ trưởng tộc phiên âm sang
chữ Quốc ngữ và cất giữ, th́ được
biết đă bị mối mọt ăn hư mất. Tôi
tiếc ngẩn ngơ và mong sớm có ngày được
về quê để đến kính viếng từ
đường của Ḍng họ nằm ở làng ngoài Công
giáo gần bên và xin tham khảo bản gia phả. Trong lúc
chờ đợi, tôi vào thư viện t́m đọc và sao
chụp những trang sách có nói về họ Vơ và lịch
sử họ Vơ... Đọc được một số
sách và bài có nói về nguồn gốc ḍng họ Vơ ở
Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương cũng như
ở Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tôi càng háo hức
sớm có dịp về Bắc t́m kiếm. Măi mùa thu 1990,
mộng mới thành.
Cha Giuse Lê Viết
Phục, Ḍng Chúa Cứu Thế, lúc ấy đă 70 tuổi,
là một người cha và một người anh tôi
hằng ngưỡng mộ. Biết được ước
nguyện của tôi, ngài đă mời tôi theo ngài hành
hương Giáo hội phía Bắc trong ṿng 3 tuần. Ngài
hứa đưa tôi thăm hầu hết các Ṭa giám
mục phía Bắc và đặc biệt sẽ đưa
tôi về làng quê An Nhiên và về gốc tổ Mộ Trạch.
Quả là một món quà hết sức bất ngờ.
Sáng ngày 11-09-1990, chúng
tôi về tới làng quê nơi tôi sinh trưởng là An Nhiên.
Xế chiều tôi t́m đến thăm cụ tộc
trưởng họ Vơ huyện Thạch Hà (tỉnh Hà
Tĩnh) ở làng bên để thắp hương bái
tổ. Sau ngót ba trăm năm xa cách về mặt tinh
thần, tôi phập phồng không biết sẽ nói năng
làm sao. Thế nhưng tôi đă được cụ
tộc trưởng và con trai cụ là một nhà giáo dang
rộng ṿng tay đón nhận. Nhà giáo này nhanh nhẹn thu
xếp mọi sự để chiều hôm sau tôi dâng thánh
lễ cầu b́nh an cho ḍng họ tại sân nhà cụ tộc
trưởng.
Cuối thế
kỷ 17, cụ tổ đời thứ sáu của họ
Vơ ở Thạch Hà là Hiển Dương Hầu Vơ Tá
Cảnh được ơn tin Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô
và dọn nhà sang sinh sống tại làng Công giáo, cách
khoảng một cây số đường chim bay.
Người em trai út của ông là Cường Lộc
Hầu Vơ Tá Trọng đă đưa vai cáng đáng việc
từ đường, nhờ đó mà việc tế
tự truyền thống vẫn kéo dài măi đến nay.
Cuộc chia tay
để lại vết thương khó lành trong tâm
khảm. Con đường từ thị xă Hà Tĩnh
xuống cảng Hộ Độ gần như là ranh
giới chia đôi, những làng Công giáo ở phía Bắc và
những làng lương dân ở phía
Sau thánh lễ,
tất cả cùng ngồi lại ăn bánh ngọt chia
sẻ tâm t́nh. Tôi đă dự tính về xin tham chiếu gia
phả nhưng tôi không c̣n kịp hỏi han ǵ đến
chuyện ấy v́ có một cái ǵ ở trên vừa ập
xuống c̣n lớn lao hơn nhiều. Nhà giáo Vơ Tá
Tương cảm tác một bài đường luật
bát cú ghi nhớ cuộc "sum họp". Bài thơ
ấy đă mở màn cho cuộc xướng họa
"sum họp". Đất nước thống
nhất là địa lợi, ḷng người cùng khắc
khoải t́m kiếm như nhau là nhân ḥa; và hơn thế
nữa, c̣n có cả thiên thời. Vâng, nhờ ơn Chúa,
đúng một tuần sau hôm dâng lễ ở từ
đường, tôi t́m được ngôi mộ ông nội
của vị tổ thế kỷ thứ IX mà cha tôi và các chú
tôi thường nhắc đến, trên cánh đồng
huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Trong cùng một
buổi chiều ấy, hết sức bất ngờ, tôi
c̣n t́m được cả những trang gia phả hơn
800 năm trước tại nhà một vị
trưởng lăo có tên là Thiên Hựu – Trời xếp
đặt. Tôi gửi các bài họa của tôi cùng với
h́nh chụp ngôi mộ và bản đồ chỉ
đường đến
đó. Những chi tiết ấy đă tạo thêm cảm hứng
cho nhiều người. Có đến gần 40 bài họa
của nhiều anh em các nhánh họ Vơ khác nhau tại Hà
Tĩnh, Nghệ An và cả Hà Nội. Những bài thơ này
được chép tay, đánh máy, photocopy, phát tán không riêng
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh mà c̣n lan đến
một số tỉnh thành phía Bắc và phía Nam, góp phần
làm dậy nên sức sống cho t́nh đồng tộc...
Kinh nghiệm ở
đây, từ chuyện xướng họa thơ
Đường giữa những người luống
tuổi, tôi muốn gợi ư với các bạn trẻ
sử dụng những phương tiện truyền thông
ngày nay vào việc xây dựng t́nh đồng tộc và loan
báo Tin mừng: email, chat, nhắn tin, nhạc chờ, blogs,
facebook...
Chuyện thiên
thời đối với tôi c̣n có nghĩa là những
ơn lạ, lặp đi lặp lại nhiều lần
trên hành tŕnh t́m về nguồn cội, giúp tôi t́m ra
được cả những manh mối nối liền
được một số nhóm bị đứt
đoạn về gia phả suốt mấy trăm năm
qua, như tôi đă kể lại ở cuối quyển
Về Với Cội Nguồn. Tôi có cảm tưởng
những ơn ấy là những tín hiệu siêu nhiên
muốn nhắn nhủ rằng việc nối kết ḍng
họ đang được Thiên Chúa chúc lành như một
nẻo đường hồn nhiên của Tin mừng.
Tôi đă đề
xuất ngày truyền thống các ḍng họ để
dễ gặp gỡ anh chị em lương dân và giúp
họ hiểu giáo lư đạo Chúa. Điều ấy chỉ
thiết thực với những ai ở gần nhà
thờ, những người ở xa xôi thật khó. Như
tại giáo phận Qui Nhơn chúng tôi, tỉ lệ
người Công giáo chỉ chiếm 1,8% dân số, khắp
ba tỉnh chỉ có hơn 50 ngôi nhà thờ, cả những
người Công giáo lắm khi cũng sống rất xa nhà
thờ. Vậy th́ phải làm sao đây?
Những ai trong quư
độc giả thường đi xe đ̣, hẳn
đă có lần được tặng sách báo và băng
đĩa Phật giáo. Tôi đă nhiều lần thấy
người ta tặng sách và đă hai lần nhận sách.
Một lần có vẻ t́nh cờ, người ngồi bên
cạnh tôi đọc một quyển sách song ngữ
của Ḥa thượng Tịnh Không, tôi hỏi chuyện và
người ấy tặng luôn quyển sách. Lần kia là
một phụ nữ mặc áo lam, đem theo một
giỏ xách đầy những đĩa CD và những
cuốn sách mỏng. Bà lớn tiếng giới thiệu và
tặng cho bất cứ ai muốn nhận. Tôi xin hai
đĩa, một có tựa đề “Tại sao phải
tu theo Đạo Phật” và một có nội dung bảo
vệ sự sống.
Mỗi lần
dạy giáo lư, tôi thường đi in bài ở quầy
photocopy của một thiếu nữ khuyết tật
rất vui vẻ và quảng đại. Thỉnh thoảng,
khi nội dung bài giáo lư dễ đọc, tôi tặng cho cô
một bản. Có lần thấy trên bàn một chồng
sách mỏng hướng dẫn cách tụng kinh niệm
Phật trong các dịp cúng giỗ, tôi hỏi thăm th́
được cô tặng luôn một bản. Thật
bất ngờ, tên người “ấn tống” ghi ở
cuối, không ai khác hơn là chính cô ấy. “Ấn tống” là
thuật ngữ chuyên môn có nghĩa là đóng góp để
in sách Phật giáo và phát hành miễn phí.
Nhân một mùa Vu Lan,
nhận được một CD thuyết pháp về “báo
hiếu”, tôi đă tặng đáp lễ một CD
mười bài “cầu cho cha mẹ” của nhạc sĩ
Phanxicô Nguyễn Đ́nh Diễn. Phản hồi tích cực
từ người bạn Phật tử ấy khiến
tôi nghĩ đến việc phát hành rộng răi CD của
anh Diễn. Mười bài ca đă khiến nhiều
phụ huynh rơi lệ và đă giúp nhiều bạn
trẻ quyết sống tốt lành để đáp
đền nghĩa mẹ t́nh cha, tự nó sẽ có sức
lan tỏa vượt khỏi hàng rào các giáo xứ. Tôi trao
đổi với một cha phó ở miền quê, anh
đề nghị nên chèn vào giữa các bài hát một vài
lời ngắn về Đạo Hiếu theo quan
điểm Công giáo. Tôi viết năm lời giới
thiệu chèn vào CD và tặng thử. Một số giáo dân
lại đề nghị phải cho thêm h́nh, để
người ta vừa nghe nhạc vừa xem h́nh ảnh.
Quả là một
gợi ư hết sức hay. Một CD mười bài hát
cầu cho cha mẹ, có lời dẫn về Đạo Hiếu,
lại kèm thêm cả h́nh ảnh người Công giáo đang
thắp hương cúng lễ gia tiên, sẽ len lỏi vào
mọi ngơ ngách để nói cho người lương
hiểu giáo lư Công giáo về Đạo Hiếu. Tôi gọi
cho nhạc sĩ Phanxicô. Anh đồng ư cho tôi thực
hiện. Lúc ấy trên mạng Dũng Lạc đă có
mấy bài được anh Xuân Minh làm thành slideshow. Tôi liên
lạc với anh Minh và anh nhận lời làm thêm mấy
bài. Một nhiếp ảnh gia ở giáo xứ Tân
Phước, Sài G̣n, là anh Phong nhận làm giúp những bài c̣n
lại. Sau bốn tháng, tôi đă có được DVD mong
đợi với tựa đề: “Tâm ca mùa báo hiếu”.
Cả bà con người giáo và người lương
đều rất thích.
Hy vọng trong
dịp kỷ niệm 50 năm áp dụng huấn thị
về Tôn kính Tổ Tiên, nhạc sĩ Phanxicô sẽ chính
thức xin lại giấy phép xuất bản đĩa nhạc
này để phát hành rộng răi trong mọi thành phần
lương, giáo.
Ước ǵ sẽ
có đông đảo anh chị em giúp ấn tống
hoặc mua tặng cho bà con lương dân nhân dịp
đám giỗ, đám tang, đám cưới, mùa Vu lan, Giáng
sinh hoặc Tết Nguyên đán. Nếu các linh mục và
cả giáo dân không có dịp gặp gỡ những
người ở xa để hóa giải thành kiến “theo
Đạo bỏ Ông bỏ Bà” th́ DVD Tâm Ca Mùa Báo Hiếu
sẽ làm thay. Khi mỗi gia đ́nh Công giáo đều quan
tâm mua DVD này tặng cho những gia đ́nh lương dân
ḿnh quen rồi chú tâm cầu nguyện cho họ th́ có
thể nói chương tŕnh mỗi gia đ́nh một tiểu
tổ truyền giáo đă khởi sự cách nhẹ nhàng.
Kỵ giỗ
khiến bà con lương dân chạm phải một bí
ẩn: Một đàng trực giác thấy người thân
chưa siêu thoát, c̣n phải được thanh luyện (đến
hết đời thứ năm), một đàng lại thấy
có thể xin họ độ tŕ? Làm sao họ có thể
độ tŕ được ai khi họ chưa siêu thoát….
Trước những
khó khăn gây lúng túng, sự nhập cuộc của
người Công giáo có thể góp thêm hơi ấm. Hơn
nữa, với giáo lư minh bạch của Đạo Chúa, họ
c̣n có thể đem lại ánh sáng và b́nh an giúp bà con
đồng tộc vượt khỏi một số khó
khăn bế tắc.
Tháng Mười
Một, tháng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn
và cũng là tháng kính nhớ Tổ Tiên. Người Công giáo
vẫn tự hào ḿnh nhớ đến Tổ tiên không chỉ
trong ngày giỗ hay ngày mùng hai Tết mà suốt tháng
Mười Một, và cả trong thánh lễ hằng ngày
của bất cứ tháng nào. Rơ là người Công giáo không
bỏ ông bỏ bà tí nào!
Tuy nhiên ta cần
lưu ư để không giản lược khái niệm
"kính nhớ Tổ tiên" vào việc "cầu
hồn". Theo mục từ "Giỗ" trong từ
điển Vi.Wikipedia, ngày giỗ thường (từ
năm thứ ba trở đi) được duy tŕ
đến hết năm đời, sau năm đời
th́ được siêu thoát, không cần "giỗ"
riêng nữa. Ngày "giỗ" có liên quan với việc
"cầu hồn" tuy nhiên nó lại vượt xa
hơn việc cầu hồn. Xin lược trích:
"Trong thờ cúng
tổ tiên, có 3 ngày giỗ: Giỗ Đầu, Giỗ
Hết, Giỗ Thường.
Giỗ Đầu
gọi là Tiểu Tường, là ngày giỗ đầu tiên
sau ngày người mất đúng một năm, nằm
trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn c̣n bi
ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn
chưa đủ để làm khuây khỏa những
nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong ḷng của
những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu,
người ta thường tổ chức trang nghiêm không
kém ǵ so với ngày để tang năm trước, con cháu
vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và
khấn Gia tiên, những người thân thiết của
người quá cỗ cũng khóc giống như ngày
đưa tang ở năm trước.
Giỗ Hết
gọi là Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày
người mất hai năm, vẫn nằm trong thời
kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa
đủ để hàn gắn những vết
thương trong ḷng những người c̣n sống. Trong
lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm,
con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc
giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang,
vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém ǵ Giỗ
Đầu.
Sau ngày lễ này
hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta
sẽ chọn ngày tốt để Trừ phục (c̣n
gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang,
người thân sẽ đốt hết những áo
quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang
sống sẽ trở lại cuộc sống thường
nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui,
đ́nh đám và người vợ mới có thể đi
bước nữa (nếu chồng ḿnh mất). Đây là
một buổi lễ vô cùng quan trọng, v́ nó là một
bước ngoặt đối với người đang
sống và vong linh của người đă mất.
Giỗ Thường
c̣n gọi là ngày Cát Kỵ, là ngày giỗ sau ngày người
mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là
Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc
đồ thường phục, không khóc như ngày
đưa ma nữa, không c̣n cảnh bi ai, sầu thảm,
là dịp cho con cháu người quá cố sum họp
để tưởng nhớ người đă khuất,
không c̣n mời khách rộng răi như hai lễ Tiểu
Tường và Đại Tường.
Ngày giỗ
thường được duy tŕ đến hết
năm đời. Đến sau năm đời, vong linh
người quá cố được siêu thoát, nên không
cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung
vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu
c̣n nhớ đến tổ tiên và người đă
khuất, thể hiện ḷng thành kính. Cúng giỗ không
nhất thiết phải quá đắt đỏ, linh
đ́nh hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có
đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc th́
cũng đă giữ được đạo hiếu với
tổ tiên.
Ngày này, khách
đến ăn giỗ không c̣n quá đau buồn như hai
lễ Tiểu Tường và Đại Tường
trước, có thể mặc trang phục b́nh thường."
Giỗ là dịp
để ta chia sẻ cái nh́n về đời sau theo quan
điểm Kitô giáo.
Một số
người lành thánh được Ṭa Thánh tuyên phong
hiển thánh hoặc chân phước, c̣n ở các
trường hợp khác ta không thể vơ đoán về t́nh
trạng của người đă khuất. Với
đức tin khiêm nhường và ḷng yêu mến dành cho
người quá cố, ta kéo dài việc cầu xin cho họ
sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Ta phải nghĩ
đến sự công thẳng của Thiên Chúa nhưng không
được v́ thế mà quên mất lượng từ
bi thương xót không bến bờ của Thiên Chúa, quên
mất rằng người gian phi nọ chỉ thưa
với Chúa một lời bày tỏ đức tin th́ ngay hôm
ấy đă được ở với Chúa trên thiên
đàng. Đức trông cậy dạy ta phải lạc
quan tin tưởng vào t́nh thương tha thứ và thanh
tẩy của Chúa.
Hiện nay có
nhiều gia đ́nh và gia tộc Công giáo đang cố
gắng tiếp tục triển khai một bản gia
phả c̣n may mắn giữ được hoặc đang
gom góp tư liệu để dựng lại gia phả.
Đó là sáng kiến quư và là một khởi đầu
tốt. Với viễn tượng loan báo Tin mừng,
việc này không nên dừng lại trong nội bộ
những gia đ́nh đă theo Chúa nhưng cần quyết
tâm mở rộng tới anh chị em ngoài Công giáo. Nhiều
trường hợp đôi bên c̣n giữ được
liên hệ qua việc giỗ chạp. Anh chị em
lương dân thường khá kỹ lưỡng trong
việc lưu truyền gia phả. Ta có thể nhờ
đó mà t́m lại được thông tin về những
thế hệ xưa.
Việc mời nhau
trong dịp giỗ chạp nay đă b́nh thường.
Những ngày truyền thống từng gia tộc tại
các nhà thờ Công giáo là dịp để mời anh chị
em đồng tộc bước tới nhà Chúa, và cũng
là dịp để họ đáp lễ bằng cách mời
ta đến thăm từ đường của họ
trong các dịp giỗ. Đức Thánh Cha Phanxicô thật chí
lư khi nhấn mạnh đến viếng thăm và gặp
gỡ. Chính sự gặp
gỡ sẽ hóa giải những hiểu lầm.
Ở quê tôi,
trước kia hai làng lương và giáo rất ít qua
lại, thậm chí c̣n tránh mặt nhau. Thế nhưng sau thánh
lễ cử hành tại từ đường bên làng
lương tháng 9-1990, người dân hai bên dần dần
trở nên thân thiện. Ngày giỗ Thanh Minh, khi
được mời đến dự, bà con đồng
tộc Công giáo đem theo hương đèn, hoa quả
(Thật ra chỉ mấy năm đầu khi mới tái
lập quan hệ mới cần mời, về sau, việc
về thắp hương và đóng góp trong ngày giỗ không
phải đợi ai mời nhưng là một bổn
phận).
. Khi tôn tạo từ
đường, anh chị em Công giáo cũng đóng góp
tiền bạc. Bù lại, khi giáo xứ xây dựng nhà
thờ mới, anh chị em lương dân quan tâm thăm hỏi,
đóng góp. Ngày khánh thành nhà thờ xứ, có một đoàn
bên làng lương đến mừng. Một gia đ́nh
ở đó c̣n công đức cả hệ thống âm thanh
và đèn cao áp cho nhà thờ mới.
Sự gặp gỡ
cảm thông giúp thay đổi cái nh́n. Bài ca tế Thanh Minh
trước kia nhận định rằng “Đức Hiển
Dương vốn ḍng trưởng chánh, việc từ
đường vắng tạnh khói hương”, nay đă
đổi thành: “Hiển Dương Hầu ở ngôi cháu
trưởng, đổi sang đường tín
ngưỡng Kitô”. Thay vào sự phiền trách là sự ghi nhận khách quan, có
phần trân trọng. Có thể nói theo Đạo Chúa không
c̣n là bỏ Ông bỏ Bà.
Sự có qua có lại
này ngày càng thắm thiết. Bản thân tôi là linh mục
cũng cố gắng để khắc sâu mối thân t́nh.
Mỗi lần có dịp về thăm quê, tôi đều
dành thời giờ thăm vị Tộc trưởng và
người bạn tâm giao là nhà giáo Vơ Tá Tương. Tôi
đến thắp hương ở từ
đường và khi có điều kiện, tôi dâng thánh
lễ ở đó. Dù xa xôi ngàn dặm, hàng năm
đến giỗ Thanh Minh, vị tộc trưởng
đều gọi điện mời tôi. Một vài lần
tôi đă vượt khó khăn để về dự.
Một số lần khác, tôi đă gọi điện
về xin cha xứ hiện diện thay tôi. Cha Phêrô
Nguyễn Đại, khi là chính xứ An Nhiên, đă hai
lần đến thắp hương tại từ
đường Hà Hoàng và được mời phát
biểu trước hàng mấy ngàn người về
dự đại tế.
Sự nhập
cuộc của các linh mục được anh chị em
người lương quư chuộng cách riêng. V́ thế, mỗi
khi bắt liên lạc được với một ḍng
họ nào, tôi đều cố gắng giới thiệu
một cha thuôc ḍng họ ấy. Tại Lư Sơn, cha
Phạm Đức Thanh DCCT đă cùng tôi đến thắp
hương ở từ đường họ Phạm;
tại Qui Nhơn, cha Văn Ngọc Anh đă cùng tôi
đến thăm nhà cụ trưởng lăo họ Văn
đang hoàn thiện bản gia phả ḍng họ.
Đă có những linh
mục ghi nhớ ngày giỗ ḍng họ ḿnh và tích cực
đến hiệp thông, thắp hương. Tại
Hải Dương, hằng năm tới ngày lễ hội
họ Vũ, Đức Giám mục Hải Pḥng Giuse Vũ
Văn Thiên vẫn có lẵng hoa gửi về. Trong năm 2012,
có lần ngài đă cùng với 18 anh em linh mục mang họ
Vũ về tổ đường này dâng thánh lễ
đồng tế.
Đức Giám
Mục Hải Pḥng dâng lễ tại nhà khách ḍng họ
Vũ Vơ ở Mộ Trạch.
Với những
người đă tham dự ngày truyền thống ḍng
họ tại nhà thờ giáo xứ, ta nên quan tâm lui tới
thăm viếng. Mỗi giáo xứ thường có sẵn
những nhóm anh chị em lo thăm viếng, cụ thể
là các anh chị Legio Mariae, vẫn thường thăm người
neo đơn, bệnh tật, vv…
ta nên liên kết nhờ họ cùng đi thăm
để việc thăm viếng được nhịp
nhàng đều đặn hơn. Những người cao
niên thường nghĩ nhiều về đời sau, và
cũng không c̣n vướng mắc xă hội, ta nên mạnh
dạn chia sẻ về đức tin và cầu xin Chúa
mở ḷng cho họ. Ngày giờ của họ càng lúc càng
ngắn ngủi, cần được ta quan tâm giúp hoàn
tất cuộc đời đúng như Chúa mong chờ cho
họ. Khi một vị lăo thành tin nhận Chúa, con cháu
người ấy sẽ dễ hướng ḷng về Chúa
hơn.
Cần lưu ư
rằng việc loan Tin mừng của anh em Tin Lành kết
quả nhiều là nhờ họ thăm viếng nhiều.
Có một đôi bạn từ Trung Quốc theo học một
Đại học Công giáo tại Mỹ để nghiên
cứu về Kitô giáo. Khi ra trường, họ bày tỏ
nỗi ngạc nhiên:
- Tại
trường Đại Học này, có rất nhiều linh
mục, tu sĩ và nữ tu Công giáo, nhưng hơn ba năm
ở đây không có bất cứ một ai đến
thăm chúng tôi, ngược lại mỗi ngày Thứ Sáu
đều luôn có người Tin Lành đến nói về
Kinh Thánh cho chúng tôi nghe.
Có lẽ câu nói ấy
phải khiến chúng ta tự vấn nhiều trước
anh em và trước nhan Chúa.
Khi mở rộng ṿng
giao lưu tới anh chị em đồng tộc ngoài Công
giáo, ta sẽ thấy khó khăn trong việc phục
hồi gia phả là chuyện chung của các gia tộc
hiện nay, không riêng ǵ lương hay giáo.
Bản gia phả chi
tộc chúng tôi đă được chuyển dịch sang
chữ Quốc ngữ khoảng năm 1950. Tiếc thay nó
đă bị mối mọt phá hủy. Sự kiện
ấy giúp tôi đồng cảm với những nhóm
mất hẳn gia phả, do chiến tranh, nghèo đói, không
được đi học...
Hiện nay ở
huyện quê nhà của tôi có nhiều gia đ́nh Công giáo mang
cùng họ và cùng chữ lót với gia tộc chúng tôi,
chưa kể nhiều gia đ́nh cùng họ nhưng khác
chữ lót, cũng bị mất gia phả như chúng tôi.
Mỗi nhóm chỉ có thể quy tụ quanh những vị
tổ gần đây hiện c̣n biết được
nhưng khó mà xác định liên hệ thế thứ
giữa vị tổ nhóm ḿnh với những vị tổ
các nhóm khác. Về mặt tâm t́nh đồng tộc, họ
không ngần ngại nhận ḿnh phát xuất từ cùng
một vị trưởng tộc đă theo Công giáo cách nay
khoảng 300 năm, là Hiển Dương Hầu Vơ Tá
Cảnh, nhưng do thiếu phả liệu nên không sao
nối kết thành một hệ thống chung.
Từ đó, tôi
đề ra khái niệm "đường dẫn co
dăn", có nghĩa là những gia đ́nh nào muốn
đều có thể tiếp tục viết bản gia
phả của chính ḿnh, bằng cách nối một
đường dẫn co dăn từ tổ Vơ Tá Cảnh
đến vị tổ cao nhất mà gia đ́nh ấy
hiện c̣n biết được. Ví dụ nơi gia
phả phía cha tôi, đường dẫn ấy sẽ
nối từ tổ Vơ Tá Cảnh cho đến tổ Vơ Tá
Dinh (tôi là cháu đời thứ năm), c̣n phía họ Vơ
của các cậu tôi và mẹ tôi đường dẫn
sẽ nối thẳng từ tổ Vơ Tá Cảnh
đến tổ ngoại tôi là cụ Luca (tôi là cháu
đời thứ tư).
Khi tôi mới nêu
giải pháp này vào năm 1997, nhiều người c̣n
ngần ngại. Thế nhưng, dịp tế Thanh Minh
2010, hầu hết các nhánh họ Vơ tại giáo xứ quê tôi
đều đă có mặt tại từ đường
đại tôn (do bà con người lương đảm
nhiệm) ở Hà Hoàng.
Nếu mỗi gia
đ́nh hiện nay đều có thể tự ḿnh nối
một đường dẫn co dăn như thế
để tiếp tục viết gia phả, th́ ai có
thẩm quyền thừa nhận rằng gia đ́nh ấy
đúng là người trong họ? Theo tinh thần anh em
về họp mặt trong những năm qua, sẽ không ai
đặt vấn đề thừa nhận, ngược
lại ai nấy đều vui mừng mỗi khi có thêm
những anh em đồng cảm cả trong tâm t́nh
đối với tổ tiên và tâm t́nh đối với
hậu thế. Nói cách khác, bên cạnh những nỗ
lực t́m ghi lại quá khứ, hiện c̣n có một xu
thế coi trọng một gia phả tinh thần ít ra
cũng ngang hàng với một gia phả bằng chữ
viết.
Thật vậy,
nếu phục hồi được những chứng
liệu về một chuỗi liên hệ huyết thống
đầy đủ và xác thực th́ quư biết bao.
Thế nhưng có lẽ đó không phải là mục
đích duy nhất của việc thực hiện gia phả
và, đàng khác, nhiều khi đó là điều không thể
làm được. Ta liên kết là để thêm t́nh thêm
nghĩa, chứ chẳng có ǵ để gọi là quyền
lợi hay bổn phận. Nếu cứ khăng khăng
phải t́m cho được chứng liệu liền
mạch, chắc hẳn sẽ đến lúc người
ta đành phải chia tay v́ không thể nào c̣n giữ
được những chứng liệu như thế.
Ngày nay, ai cũng
hiểu rằng chuyện một mẹ trăm con chỉ
là huyền thoại chứ không phải là gia phả
thật. Công dụng của câu chuyện là tạo cơ
sở để bất cứ gia đ́nh nào cũng có
quyền nối chính ḿnh vào cội nguồn Âu Lạc.
Đường
dẫn co dăn là chuyện b́nh thường trong gia phả
học Kinh Thánh. Tại Trung Đông, xă hội du mục
hơn 3000 năm trước đây đ̣i các bộ
lạc phải nương vào nhau để sinh tồn. Các
bộ lạc yếu t́m liên kết với các bộ
lạc mạnh. Người ta thường khẳng
định liên hệ giữa hai bộ lạc bằng
một đường dây gia phả nào đó. Nghiên cứu
kỹ, người ta khám phá ra rằng nhiều bản gia
phả có phần nhập đề rất giả tạo,
mối dây liên kết các bộ lạc trong thời
điểm viết gia phả rất lỏng lẻo. Dù
vậy, mối dây ấy cần thiết để
biện minh cho sự liên kết và để tạo cho
thành viên đôi bên cái tâm lư "máu loăng c̣n hơn nước
lă" và thật sự quan tâm đến nhau.
Vấn đề
trước mắt của chúng ta là với những
mảnh vụn gia phả c̣n may mắn giữ
được, làm sao để t́m ra những mối liên
hệ thân t́nh giữa các nhánh cùng ḍng họ? Và hơn
nữa, làm sao có thể nối kết khi người ta
chẳng c̣n một mảnh vụn nào? Trong thực tế,
tại những thôn xă có từ đường một ḍng
họ nào đó, ngay bên cạnh từ đường có
thể vẫn có những gia đ́nh đồng tộc
đă gián đoạn liên lạc không biết từ bao
giờ, lại cũng có những gia đ́nh đồng
tộc từ đâu khác mới đến được
vài ba đời... Có nơi người phụ trách từ
đường đă chủ động đến
thăm và mời những gia đ́nh lẻ loi như
thế cùng đến dự tế hiệp, v́ dù nhiều
hay ít, cách này hay cách khác, vẫn có một liên hệ
đồng tộc.
Nếu giấy
trắng mực đen c̣n đó và chỉ một số ít
gia đ́nh nối được tên ḿnh vào chuỗi gia
phả th́ số ít này dễ gặp nguy cơ kiêu hănh,
tự hào ḿnh là “của thật”, những anh em khác là
“của giả”. Nay cái giấy trắng mực đen kia
thành cát bụi, mọi người đều lạc
mối như nhau th́ cũng đều có thể tự
nối với gốc tổ một cách b́nh đẳng và
đồng thời cũng là một cách khiêm nhường,
theo t́nh chứ không theo lư.
Những liên hệ có
tính tương đối như thế sẽ giúp
người trong cuộc tự hỏi tại sao không
đi xa hơn, nối tiếp những đường dẫn
co dăn cho tới con người đầu tiên của
lịch sử, cho tới nguyên tổ Ađam để
gặp được Cội Nguồn tuyệt đối
là Cha Cả trên trời?
Như thế ta có
thể t́m được ở đây thêm một minh
họa cho học thuyết của các vị Tiến sĩ
Hội thánh thuộc Ḍng Cát Minh về sự thanh tẩy chủ
động và sự thanh tẩy thụ động. Ông
Abraham đă tự nguyện ĺa bỏ quê cha đất
tổ, lên đường theo tiếng Chúa gọi và
gặp được Thiên Chúa là Cội Nguồn và Đích
Điểm. Ông tự nguyện thanh tẩy khỏi
những vấn vương trần thế. C̣n chúng ta, dù
tha thiết với những cội nguồn nhân loại đến mấy cũng
không sao t́m lại được; Thiên Chúa đă dùng
ngoại cảnh, cắt đứt chúng ta với những
cội nguồn ấy, rồi khi ta đang hụt hẫng
bơ vơ th́ Ngài lại soi sáng cho ta nhận biết Ngài
là Cội Nguồn đích thật. Chính Thiên Chúa thanh tẩy
và tước đoạt. Nếu ta thuận t́nh chiều
theo sự dẫn dắt ấy của Ngài, Ngài sẽ
đích thân đưa ta về với Ngài. Nhu thế,
cả thái độ tự nguyện lẫn thái độ
thuận t́nh đều giúp nhận được đức tin.
Năm 2009, cụ Vơ
Huề ghé thăm tôi. Cụ là hậu duệ của
tiền hiền Vơ Lực, mộ hiện ở nghĩa
trang giáo xứ Phú Hữu, huyện Tây Sơn, tỉnh B́nh
Định. Tôi chia sẻ với cụ về sinh hoạt
liên kết họ Vơ hiện nay ở khắp trong
nước và hải ngoại. Cụ thấy ngay đó là
một nỗ lực rất tích cực có thể góp
phần giáo dục hữu hiệu cho lớp trẻ. Do
đó, cụ đă năng nổ liên lạc và vận động
để có được cuộc họp mặt một
số bà con Công giáo họ Vơ vào dịp sinh nhật Tổ Vơ
Hồn, ngày mùng 8 tết Canh Dần, 2010.
Cuộc họp
mặt đă đề cử ra một ban liên lạc
họ Vơ Công giáo tỉnh B́nh Định, chuẩn bị cho
những cuộc họp mặt về sau. Thế rồi
chúng tôi đă có ngày Vơ Tộc Công Giáo B́nh Định lần
thứ hai, vào mùng 8 tết Tân Măo, 2011 và lần thứ ba vào
mùng 8 tết Nhâm Th́n, 2012.
Trong cuộc sinh
hoạt lần thứ hai, trước các đại
biểu cả người giáo và người lương,
ông Trưởng ban Liên lạc Vơ tộc Công giáo tỉnh B́nh
Định đă nêu lên những mục tiêu rất
thiết thực của việc liên kết ḍng họ:
- Mục tiêu thứ
nhất là để động viên nhau sống tốt,
không làm ô danh tổ tiên. Đây là điều quan trọng và
cần thiết trong hoàn cảnh giáo dục đầy khó
khăn ngày nay.
- Mục tiêu thứ
hai là để nhắc nhau xây dựng t́nh gia đ́nh và gia
tộc thật ấm cúng đậm đà. Đây cũng
là điều rất quan trọng. Do ảnh hưởng
văn minh tiêu thụ, chạy theo tiền bạc, nhiều
gia đ́nh dễ tan vỡ. Cùng với lời dạy và
sự nâng đỡ tinh thần của Hội Thánh, chính
các gia tộc phải tích cực nhắc nhở nhau và giúp
nhau vượt qua khó khăn để bảo đảm
hạnh phúc gia đ́nh.
- Mục tiêu thứ
ba là để gia tăng t́nh thân ái với các anh chị em
đồng tộc trong cũng như ngoài Hội Thánh Chúa,
để từ chỗ chu toàn đạo hiếu dưới
đất với tổ tiên, chúng ta sống trọn
đạo hiếu thảo với Cha Cả trên trời là
Cha chung của hết mọi người. Trước kia,
người Công giáo bị gián đoạn việc thờ
cúng Ông Bà theo cách cổ truyền,
suốt hơn 200 năm, khiến nhiều người
lương hiểu lầm rằng theo Đạo là bỏ
ông bỏ bà. Nay những khó khăn đă qua, Giáo Hội
đă cho phép người Công giáo Việt
Theo hướng
ấy, chúng tôi đề xuất những điểm sau
đây để chúng ta cùng trao đổi cho sáng rơ thêm.
1. Trong năm nay,
cố gắng giới thiệu sinh hoạt của chúng ta
tới bà con đồng tộc trong giáo xứ. Cụ
thể là mượn sổ của giáo xứ, lọc ra
một danh sách các gia đ́nh Vơ tộc.
2. Gặp riêng
từng người, kể về sinh hoạt của chúng
ta hôm nay và cùng thảo luận hướng tới
tương lai.
3. Xin photocopy tờ
hướng dẫn làm gia phả và phát cho các gia đ́nh. Qua
chiến tranh, gia phả hầu hết bị thất
lạc và gián đoạn. Mỗi gia đ́nh nên chủ động
xây dựng lại gia phả, sớm ngày nào hay ngày đó, v́
càng để lâu, các bô lăo qua đi, ta sẽ không biết
hỏi ai.
4. Anh chị em Vơ
tộc cùng giáo xứ nên xin cha sở một thánh lễ
cầu cho kẻ sống và kẻ chết trong Vơ tộc
địa phương ḿnh, rủ nhau đi thật
đông.
5. Sau thánh lễ
ấy, có thể gặp gỡ sinh hoạt và bầu ra
một ban đại diện. Ban đại diện nên
chọn người trẻ, có uy tín nhờ khả năng
và tư cách đạo đức.
6. Chú ư mời gọi
lớp trẻ tham gia sinh hoạt Vơ tộc tại giáo
xứ cũng như liên xứ. Chính lớp trẻ sẽ
là tương lai của ḍng họ.
7. Có nhiều chị
em con gái và con dâu họ Vơ rất nhiệt t́nh với sinh
hoạt ḍng họ. Xin đặc biệt lưu tâm và
mời những người ấy giúp việc chung của
ḍng họ.
8. Gặp gỡ
người phụ trách từ đường Vơ tộc
tại địa bàn giáo xứ, tại xă hoặc huyện
ḿnh, không phân biệt lương hay giáo, để xin sao
chụp gia phả, phiên dịch và tham khảo để t́m
nguồn cội.
Tại mỗi giáo
xứ, hằng năm nên có một ngày sinh hoạt, tốt
nhất là vào ngày lễ một vị thánh trong ḍng họ.
Nên mời tất cả các gia đ́nh đồng tộc
trên địa bàn giáo xứ, cùng con dâu và con rể. Nên
mời cả bà con đồng tộc ngoài Công giáo cùng tham
gia, đồng thời cũng nên tích cực nhận
lời mời tham gia các sinh hoạt đồng tộc
của các anh chị em ngoài Công giáo.
Nội dung chính là
thánh lễ và giờ gặp gỡ trước hoặc sau
thánh lễ.
Nhiều làng có
hương ước, nhiều nhánh tộc họ có
tộc ước. Các quy ước thành văn có cái hay
của nó nhưng cũng có lắm điều phức
tạp. Sinh hoạt của chúng ta chỉ giản dị là
động viên ḷng hiếu thảo và hiếu học, v́
thế nên tránh viết thành nội qui với những
điều lệ rắc rối. Cần giữ cho sinh
hoạt luôn mang tính tự do, không ràng buộc.
Chỉ cần
đề cử một ban liên lạc để tổ
chức và nhắc anh chị em tham gia. Ban liên lạc làm
việc với tinh thần tự nguyện, vô vụ
lợi.
Không nên gây quỹ.
Mỗi lần sinh hoạt sẽ xin bà con đóng góp tùy
hảo tâm. Nếu bị hụt th́ xin thêm cho đủ,
nếu dư th́ ban liên lạc sẽ quyết định sử
dụng vào việc ǵ có ư nghĩa nhất, trong thời gian
sớm nhất, không giữ lại.
Đời
1 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
2 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
3 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
4 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
5 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đời
7 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
BẢN
HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG GIA PHẢ
Bước
đầu
Xin lưu ư:
Bản hướng
dẫn này giúp bạn thực hiện phần chính yếu
trong gia phả của bạn, tức là phần trực
hệ (cha, ông nội, ông cố, ông can,…). Sau khi có kinh
nghiệm, bạn sẽ bổ sung các phần bàng hệ
(chú, bác…)
Nếu bạn
muốn lập gia phả phía mẹ bạn, th́ phải làm
một bản khác (mẹ, ông ngoại, ông cố ngoại,
ông can ngoại…).
Các bước
thực hiện:
1. Ghi các tổ phụ
(nam giới) hàng dọc từ cha của bạn trở lên,
cho tới vị trên cùng mà bạn biết được.
Nếu vị này có những anh chị em mà bạn biết
tên tuổi, c̣n thân phụ của các vị bạn không rơ
họ tên, bạn sẽ gọi vị tổ cao nhất này
là vị tổ khuyết danh.
2. Ghi tên vị tổ
cao nhất (hoặc vị “khuyết danh”) đă t́m thấy
vào ô đậm ở hàng “đời 1”. Bạn không c̣n
biết vị này có anh em hay không, cho nên trước tên
của vị này không ghi số thứ tự nhánh. Hàng
“đời 1” chỉ có một ô là v́ thế.
3. Các vị tổ
đời thứ hai trở đi, mỗi vị có mấy
anh em trai th́ đời ấy có mấy nhánh. Bạn ghi tên
các anh chị của vị tổ vào các ô bên trái, các em trai
và em gái của vị ấy vào các ô bên phải, theo thứ
tự. Sau đó bạn đánh số thứ tự các nhánh
vào trước tên những người nam.
4. Tên phu nhân các vị
tổ sẽ bổ sung sau.
5. Bạn vạch
những mũi tên từ mỗi vị tổ đến
các người con của họ, rồi xóa những ô
trống.
6. Phần gia phả
của các nhánh khác ở mỗi đời sẽ bổ
sung sau. Tốt nhất, bạn giao phần của mỗi
nhánh cho người phụ trách nhánh đó, rồi cuối
cùng sẽ tổng kết lại.
7. Bạn trao
đổi với những người có kinh nghiệm
trong vùng để tiến hành những bước tiếp
theo.
8. Tại các nhà sách,
có một số bản mẫu sổ gia phả – Khi đă
có số liệu, bạn có thể tham khảo những sách
ấy để tŕnh bày theo cách nào bạn thấy tiện
nhất.
Loạt bài này khá dài, những ai không có giờ,
chỉ cần đọc bài này và một vài bài kế
tiếp. Những ai muốn nhặt nhạnh thêm kinh
nghiệm có thể đọc tiếp những điều
Chúa đă cho tác giả trải nghiệm hơn 20 năm
qua, giúp hiểu ư nghĩa một trào lưu văn hóa và
vận hội nó đang đem lại cho sứ vụ loan
Tin mừng của Giáo hội.
Việc thực hành rất đơn giản,
bất cứ giáo xứ hay giáo họ nào cũng làm
được.
Sau tết Quư Tỵ 2013 vừa qua tại giáo xứ
Song Mỹ thuộc giáo phận Nha Trang, một số
bạn trẻ họ Vơ đă có sáng kiến xin cha sở
một thánh lễ cầu nguyện cho những
người cùng họ c̣n sống và đă qua đời.
Với bức tâm thư trang trọng gửi đến mọi
gia đ́nh họ Vơ trong giáo xứ, đă có trên 100
người đến dự lễ. Sau thánh lễ hơn
50 người đă ở lại gặp nhau tại
hội trường giáo xứ. Họ chia sẻ tâm t́nh
thật chan ḥa rồi thảo luận sôi nổi và đi
đến bốn quyết định: Thứ nhất,
đề cử ra một ban liên lạc họ Vơ Công giáo
của giáo xứ; thứ hai, mỗi lần có người
họ Vơ trên địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ
tặng một ṿng hoa phúng điếu ghi ḍng chữ:
"Ban Liên lạc họ Vơ Công giáo giáo xứ Song Mỹ
thành kính phân ưu"; thứ ba: anh chị em đồng
tộc Công giáo sẽ nhắc nhau sống tốt hơn
để khỏi phụ ḷng bà con đồng tộc ngoài
Công giáo; Thứ tư: Từ đây về sau, mỗi
năm tới ngày này, đều xin lễ như thế và mỗi
gia đ́nh họ Vơ Công giáo sẽ mời một gia đ́nh
họ Vơ người lương đến dự thánh
lễ. Có thể lắm người được
mời sẽ không đến nhưng nhiều người
khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia
đ́nh con cái Chúa, sẽ hiểu cách người Công giáo tôn
kính và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Điều nhóm anh chị em ấy đă làm, thiết
tưởng bất cứ nhóm đồng tộc nào
tại mỗi giáo xứ, dù đông người hay ít
người, cũng đều có thể làm
được. Sau bao năm ly loạn, khi ḥa b́nh lập
lại, đa số người ḿnh, lương cũng
như giáo, hiện không c̣n gia phả, không c̣n từ
đường, lắm khi không c̣n nhớ ngày giỗ
của ḍng họ ḿnh. Thế nhưng khi ta nhận biết
Thiên Chúa là Cha, Ngài đă cho lại chúng ta tất cả và
c̣n hơn thế nhiều. Không c̣n gia phả, nhưng chúng
ta biết rơ ḿnh là anh em con một Cha trên trời. Không c̣n
từ đường nhưng chúng ta lại có chung một
nhà Chúa là từ đường của muôn dân, bởi
lẽ hai chữ từ đường trong
tiếng Hán dịch sang tiếng Việt không ǵ khác hơn
là nhà
thờ. Có thể không c̣n nhớ ngày giỗ của
ḍng họ nhưng chúng ta có ngày lễ của những
vị thánh tử đạo cùng ḍng họ. Trong số các
thánh tử đạo người Việt, có 28 vị ta
không rơ thuộc họ nào; c̣n 69 vị khác thuộc về 17
ḍng họ: họ Bùi (2), họ Đặng (1), họ
Đinh (3), họ Đỗ (3), họ Đoàn (3), họ Hà
(2), họ Hồ (1), họ Hoàng/Huỳnh (1), họ Lê (7),
họ Nguyễn (24), họ Phạm (5), họ Phan (3),
họ Tạ (1), họ Tống (1), họ Trần (4),
họ Trương (2), họ Vũ/Vơ (6).
Thử h́nh dung xem, mỗi năm trong mái ấm từ
đường của trăm họ tại giáo xứ liên
tiếp có ngày giỗ Công giáo của họ Lê, họ
Nguyễn, họ Phạm, họ Phan, họ Trần, vv… và
các bà con đồng tộc người lương cùng
đến dự. Rồi tới ngày tế hiệp của
họ, họ lại mời các đồng tộc Công giáo
và cả vị thủ từ của từ
đường muôn dân là cha xứ đến dự. Ḍng
họ là con đường thật hồn nhiên để
ta đến với anh em và đưa anh em đến
với Chúa. Ta có những cơ hội tốt nhất
để giải thích cho bà con lương dân hiểu giáo
lư của Hội Thánh Công giáo về Đạo Hiếu và
việc thờ cúng Tổ Tiên để giúp họ nhận
biết và thờ phượng Cội Nguồn muôn
đời muôn thuở là Cha trên trời.
Từ năm này sang năm khác, sự giao lưu
gặp gỡ lương giáo sẽ ngày càng thêm dày và thêm
thân t́nh. Chắc hẳn sau năm, bảy năm, không ít
người sẽ nhờ đó mà nhận được
ơn đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu.
Với hy vọng ấy, tôi tha thiết mời quư
độc giả, mỗi người hăy gặp gỡ
những người Công giáo cùng ḍng họ trong giáo xứ,
trao đổi và thảo luận xem sẽ bắt
đầu công việc như thế nào. Họ nào loan Tin
mừng cho họ nấy: Rủ nhau sống tốt, hẹn
nhau trong một thánh lễ truyền thống hằng
năm, và mời bà con đồng tộc người
lương cùng đến dự.
Dĩ nhiên việc gieo trồng không kém phần
vất vả nhưng rồi mùa gặt đến,
giọng hân hoan, mặt rạng rỡ, ta sẽ ôm những
bó lúa trĩu nặng trên tay mà trở về trong tiếng
hát tạ ơn v́ những bà con cùng ḍng họ với ḿnh và
cả nhiều anh chị em khác đă trở nên con cái Chúa.
Cúi xin Chúa chúc lành cho những ước mơ đang
lớn dậy trong ḷng chúng ta.
Ở bài chia sẻ 05, chúng tôi đă nêu gợi ư
chủ yếu cho việc truyền giáo qua con
đường ḍng họ. Theo đó, mỗi ḍng họ
trong giáo xứ có thể tổ chức một ngày
truyền thống cho ḍng họ ḿnh. Nếu trong ḍng họ
có những vị thánh, có thể lấy ngày lễ kính
của một vị làm ngày truyền thống. Nếu
thiếu vị thánh đồng tộc, có thể chọn
bất cứ vị thánh nào tại Việt
Trong danh sách các thánh người Việt dưới
đây,
- 69 vị thuộc 17 ḍng họ: Bùi (2), Đặng
(1), Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn (3), Hà (2), Hồ (1),
Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn (24), Phạm (5), Phan (3),
Tạ (1), Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Vơ
(6);
- 29 vị không rơ ḍng họ.
Tên thánh |
Họ và |
Tên |
Thành phần |
Lễ
kính |
Nicôlas |
Bùi Đức |
Binh sĩ |
12.06 |
|
Đaminh |
Bùi Văn |
Thày giảng TOP |
19.12 |
|
Giuse |
Đặng Đ́nh |
Linh Mục |
21.08 |
|
Đaminh |
Đinh |
Binh sĩ |
18.07 |
|
Gioan B. |
Đinh Văn |
Thày giảng |
28.04 |
|
Tôma |
Đinh Viết |
Linh Mục OP |
26.11 |
|
Vinh Sơn |
Đỗ |
Linh Mục OP |
30.06 |
|
Giacôbê |
Đỗ Mai |
Linh Mục |
12.08 |
|
Phanxicô |
Đỗ Văn |
Thày giảng |
26.06 |
|
Phêrô |
Đoàn Công |
Linh Mục |
31.07 |
|
Gioan |
Đoàn Trinh |
Linh Mục |
26.05 |
|
Phêrô |
Đoàn Văn |
Thày giảng |
25.05 |
|
Đaminh |
Hà Trọng |
Linh Mục OP |
05.11 |
|
Phanxicô X. |
Hà Trọng |
Thày giảng TOP |
19.12 |
|
Micae |
Hồ Đ́nh |
Quan Thái bộc |
22.05 |
|
Giuse |
Hoàng Lương |
Trùm họ TOP |
05.09 |
|
Lê |
Linh Mục |
11.10 |
||
Phaolô |
Lê Bảo |
Linh Mục |
06.04 |
|
Giuse |
Lê Đăng |
Cai đội |
24.10 |
|
Anê |
Lê Thị (Bà Đê) |
Giáo dân |
12.07 |
|
Matthêô |
Lê Văn |
Thuong gia |
11.05 |
|
Phaolô |
Lê Văn |
Linh Mục |
13.02 |
|
Emmanuel |
Lê Văn |
Trùm họ |
31.07 |
|
Antôn |
Nguyễn |
Binh sĩ |
12.08 |
|
Phaolô |
Nguyễn |
Linh Mục |
08.11 |
|
Phêrô |
Nguyễn Bá |
Linh Mục |
15.07 |
|
Giuse |
Nguyễn Đ́nh |
Linh Mục |
08.11 |
|
Giuse |
Nguyễn Đ́nh |
Thày giảng TOP |
04.07 |
|
Nguyễn Duy |
Thày giảng TOP |
06.12 |
||
Antôn |
Nguyễn Hữu |
Binh sĩ |
10.07 |
|
Micae |
Nguyễn Huy |
Lư trưởng |
12.08 |
|
Phêrô |
Nguyễn Khắc |
Thày giảng. |
10.07 |
|
Anrê |
Nguyễn Kim |
Trùm họ |
15.07 |
|
Vinh Sơn |
Nguyễn Thế |
Linh Mục |
24.11 |
|
Nguyễn Văn |
Thợ may |
19.12 |
||
Đaminh |
Nguyễn Văn |
Linh Mục OP |
01.08 |
|
Phêrô |
Nguyễn Văn |
Thày giảng |
28,04 |
|
Laurensô |
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
27.04 |
|
Giuse |
Nguyễn Văn |
Trùm họ |
02.05 |
|
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
07.04 |
||
Augustinô |
Nguyễn Văn |
Nông dân TOP |
19.12 |
|
Phaolô |
Nguyễn Văn |
Thày giảng |
18.12 |
|
Matthêô |
Nguyễn Văn |
Binh sĩ |
26.05 |
|
Emmanuel |
Nguyễn Văn |
Linh Mục |
17.09 |
|
Nguyễn Văn |
Linh Mục OP |
05.09 |
||
Stephanô |
Nguyễn Văn |
Nông dân TOP |
19.12 |
|
Đaminh |
Nguyễn Văn |
Linh Mục OP |
26.11 |
|
Vinh-sơn |
Phạm Hiếu |
Linh Mục OP |
07.11 |
|
Phaolô |
Phạm Khắc |
Linh Mục |
28.04 |
|
Đaminh |
Phạm Trọng |
Quan án TOP |
13.01 |
|
Giuse |
Phạm Trọng |
Chánh Tổng |
13.01 |
|
Luca |
Phạm Trọng |
Chánh Tổng |
13.01 |
|
Simon |
Phan Đức |
Y sĩ |
12.12 |
|
Philiphê |
Phan Văn |
Linh Mục |
03.07 |
|
Augustinô |
Phan Viết |
Binh sĩ |
12.06 |
|
Martinô |
Tạ Đức |
Linh Mục |
08.11 |
|
Phaolô |
Tống Viết |
Quan thị vệ |
23.10 |
|
Trần An |
Linh Mục |
21.12 |
||
Tôma |
Trần Văn |
Chủng sinh |
21.09 |
|
Anrê |
Trần Văn |
Binh sĩ |
28.11 |
|
Phanxicô |
Trần Văn |
Cai đội. |
06.10 |
|
Phêrô |
Trương Văn |
Thày giảng |
18.12 |
|
Phêrô |
Trương Văn |
Linh Mục |
21.12 |
|
Luca |
Vũ Bá |
Linh Mục |
05.06 |
|
Phêrô |
Vũ Đăng |
Linh Mục |
24.11 |
|
Đaminh |
Vũ Đ́nh |
Linh Mục OP |
02.04 |
|
Phaolô |
Vũ Văn |
Thủ bạ |
03.06 |
|
Bênadô |
Vũ Văn |
Linh Mục |
01.08 |
|
Phêrô |
Vũ Văn |
Thày giảng. |
18.12 |
29 vị không rơ ḍng họ
Tên thánh |
Họ và |
Tên |
Thành phần |
Lễ
kính |
Anrê |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Anrê |
|
Thày Giảng |
26.07 |
|
Đaminh |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Đaminh |
|
Chánh truong |
16.06 |
|
Đaminh |
|
Nông gia |
16.06 |
|
Đaminh |
|
Linh Mục OP |
18.09 |
|
Đaminh |
|
Linh Mục TOP |
11.03 |
|
Đaminh |
|
Nông dân |
02.06 |
|
Đaminh |
|
Ngư phủ |
05.06 |
|
Đaminh |
|
Ngư phủ |
05.06 |
|
Gioan |
|
Linh Mục |
28.10 |
|
Gioan Baotixita |
|
Lư trưởng |
08.11 |
|
Giuse |
|
Linh Mục OP |
30.04 |
|
Giuse |
|
Linh Mục |
09.05 |
|
|
Giáo dân |
01.06 |
||
Giuse |
|
Giáo dân |
07.06 |
|
Laurensô |
|
Nông dân |
22.05 |
|
Martinô |
|
Viên thuế |
08.11 |
|
Phanxicô Xavie |
|
Thày giảng |
20.11 |
|
Phaolô |
|
Giáo dân |
28.05 |
|
Phêrô |
|
Thư Mục |
17.06 |
|
Phêrô |
|
Linh Mục |
12.07 |
|
Phêrô |
|
Ngư phủ |
06.06 |
|
|
Ngư phủ |
06.06 |
||
Tôma |
|
Thày giảng TOP |
27.06 |
|
Tôma |
|
Linh Mục TOP |
30.01 |
|
Vinh-sơn |
|
Chánh Tổng |
16.06 |
|
Vinh-sơn |
|
Giáo dân |
06.06 |
Hằng năm,
tới ngày kỷ niệm các vị Tử đạo,
tại quê hương của từng vị vẫn có
lễ hội của Giáo xứ và Giáo phận. Theo
hướng loan Tin mừng cho đồng tộc, ngoài thánh
lễ, rước kiệu, nên có thêm những sinh hoạt
dành cho người cùng ḍng họ với vị Thánh.
Với sinh hoạt này, ngày kính vị Tử đạo
sẽ sớm thành lễ hội của Ḍng họ và có
khả năng lôi cuốn người đồng tộc,
giáo cũng như lương. Tại những nơi ở
xa quê hương vị Thánh, nếu bà con đồng
tộc có điều kiện cũng nên xây dựng
tượng đài hoặc đền thánh. Những nơi
này cũng sẽ có thể thành những điểm hành hương
cho Ḍng họ.
Ngày về viếng
đền thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa tại giáo xứ
Thuận Nghĩa, Nghệ An, đứng trước
tượng ngài, tôi chợt có cái ao ước gặp gỡ
hậu duệ của ngài đang sống quanh đó. Khi biên
soạn quyển Về Với Cội Nguồn, tới
phần các vị thánh đồng tộc, tôi nghĩ
cần cung cấp cho độc giả những thông tin
cần thiết để có thể thực hiện
những cuộc hành hương lư thú, vừa về
thăm quê hương các thánh vừa giao lưu gặp
gỡ với hậu duệ các ngài. Rất may, tôi đă
gặp được sự giúp đỡ nhiệt thành
của ông bà Phanxicô Xaviê Phạm Vũ Hiệp, Hà Nội
(sđt: 0949-084-494). Hai vị đă đích thân hành
hương đến quê quán sáu vị thánh họ Vũ-Vơ,
kính viếng các đền thánh, chụp h́nh và đích thân
liên lạc với hậu duệ các vị thánh để
có được những số liệu chính xác và sống
động. Tôi xin được ghi lại ở đây
như một gợi hứng. Ước mong rằng
hậu duệ các vị thánh thuộc những ḍng họ
khác cũng cung cấp cho chúng tôi những thông tin tương
tự để, khi có điều kiện, chúng tôi có
thể phổ biến lại cho đồng tộc
của các ngài ở khắp nơi.
ĐƯỜNG
VỀ QUẦN PHƯƠNG – QUÊ HƯƠNG THÁNH BÊNAĐÔ
VŨ VĂN DUỆ
Đền Thánh kính thánh tử v́ đạo Bênađô
Vũ Văn Duệ tọa lạc tại làng Quần
Phương, thị trấn Yên Định, huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thuộc giáo
phận Bùi Chu, cách Hà nội khoảng 150 km. Yên Định
là một thỊ trẤn nhỏ, đẹp, rất gọn
gàng, đặc biệt đường quê ngơ xóm rất
sạch. Ở đây gần biển nên không khí ấm áp,
trong lành dễ chiụ. Người dân sống chủ
yếu nhờ nông nghiệp. Bánh nhăn là đặc sản
địa phương rất ngon và thơm. Quần
Phương là giáo xứ toàn ṭng công giáo. Nhà thờ chính
xứ ở giữa thị trấn. Giáo xứ này là
một trong ba giáo điểm (Quần Phương Đông
Cường, Trà Lũ Phú Nhai và Ninh Cường) trên quê
hương Việt Nam được đón nhận Tin
Mừng sớm nhất, từ năm 1533. Đền Thánh
Bênađô nằm sau nhà thờ xứ, cách khoảng 200m, trong
một khuôn viên rộng ước khoảng 2000 mét vuông.
Ngoài tượng đài Cha Thánh rất lớn dựng
ở bên ngoài, bên trong ngôi nhà thờ rất cổ kính, khá
bề thế đẹp, rất trang trọng và tôn nghiêm
c̣n có bàn thờ Cha Thánh. Phía trước tượng đài
và cũng là trước đền thờ Cha Thánh c̣n có
một ngôi nhà 15m x 8m, cao chừng 5m, mái cong rất cổ,
lợp ngói ta vừa được tu sửa, quét mầu
ghi sáng rất ấn tượng.
Chi tộc họ Vũ ở Quần Phương khá
đông và hiện c̣n giữ được gia phả
lập ngày 15-11-1785. Cha Thánh Bênađô là chi thứ hai, con
cụ cố Vũ Hữu Quán. Trưởng tộc hậu
duệ hiện nay của Cha Thánh là Ông Vũ Hữu Ninh, 70
tuổi (năm 2010 - sđt: 0350-377-5017). Ông cùng Ông Vũ
Văn Đốc, 61 tuổi, trông nom đền Cha Thánh
(sđt: 0350-377-5577; 0169-980-188).
Hằng năm, Giáo xứ Quần Phương và
hậu duệ Cha Thánh tổ chức giỗ ngài vào ngày 1-8
dương lịch và giỗ chi tộc họ Vũ ở
Đông Cường – Quần Anh vào ngày 15-11 âm lịch.
ĐƯỜNG
VỀ LÊ XÁ – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHAOLÔ VŨ
VĂN ĐỔNG
Thánh tử v́ đạo Phaolô Vũ Văn
Đổng là người làng Lê Xá. Vị thánh này có
người con trưởng làm linh mục tên là
Dương nên thường gọi theo tên con là Thánh
Dương..
Về mặt xă hội, Lê Xá xưa kia cùng với thôn
Cao Xá và thôn Bạn Lễ thuộc xă Vực
Đường. Vào thời Hậu Lê, để tiện
bề cai trị, vua chia xă Vực Đường thành 3 xă
có tên là: Lê Xá, Cao Xá và Bạn Lễ.
Về mặt tôn giáo, trước khi vua tách xă,
Vực Đường là một họ đạo
thuộc xứ Cao Xá (nên hiểu Cao Xá này là tên của
một xứ đạo thuộc Hưng Yên, chứ không
phải là thôn Cao Xá như mới nói ở trên). Giáo dân
của họ Vực Đường hầu hết
sống ở thôn Lê Xá, nên sau khi tách xă, họ đạo
Vực Đường nằm gọn trong xă Lê Xá, c̣n
lại hai xă kia chủ yếu là người lương.
V́ thế nói giáo họ Vực Đường hay giáo họ
Lê Xá cũng là một. Vào năm 1915, giáo xứ Cao xá
được tách ra thành hai giáo xứ: Cao Xá và Đan Chàng.
Lúc đó, họ đạo Lê Xá (Vực Đường)
thuộc vào xứ Đan Chàng. Năm 1947, họ đạo
Lê Xá được nâng lên là giáo xứ Lê Xá, và kể
từ đây tên gọi họ đạo Vực Đường
biến mất.
Năm 1954, hầu như toàn bộ giáo xứ Lê Xá di
cư vào
Đường về Lê Xá: Từ thành phố
Phủ Lư, đi khoảng 10km về phía bắc sẽ
tới thị trấn Đồng Văn, lên cầu
vượt, vào đường đi Hưng Yên và đi
khoảng 8 km tới cầu Yên Lệnh , qua cầu là ngă
tư Yên Lệnh, rẽ trái , đi khoảng 7 km, qua cả
TP Hưng Yên tới giữa trung tâm thị trấn
huyện Kim Động gặp ngă ba cây xăng, rẽ
phải (về xă Vũ Xá và Giáo xứ Lê Xá) đi khoảng
5 km, nh́n bên trái sẽ thấy nhà thờ Giáo xứ Lê Xá.
Nếu đi xe buưt từ Hà Nội th́ đón xe buưt số
209 (Giáp Bát - Hưng Yên).
Khuôn viên Nhà thờ Giáo xứ không rộng lắm. Nhà
thờ trước kia lợp ngói. Cột, dầm và kèo
đều được làm bằng gỗ tốt,
chạm trổ công phu và mỹ thuật, nhưng qua bao
biến cố lịch sử, và không được coi sóc
nhiều nên đă xuống cấp trầm trọng và đă
được tu sửa 2004, lợp tôn. Người
chăm sóc nhà thờ hiện nay là ông Vũ Văn
Cường, sđt: 0321-3826-452).
Di cư vào Nam, phần đông giáo dân Lê Xá đến
định cư tại Lạc An, tỉnh B́nh
Dương, lập thành họ đạo Lê Xá thuộc giáo
xứ Mỹ Vân (Lạc An), giáo phận Phú Cường.
Trên đường từ Hố Nai về Sài G̣n,
đến giáo xứ Hà Nội, theo đường Phát
Triển, đi 12 km sẽ đến nhà nguyện họ Lê
Xa tại ấp 1, xă Lạc An, huyện Tân Uyên, tỉnh B́nh
Dương. Cuối nhà nguyện giáo họ có tượng
đài Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng. Hằng năm, lễ
mừng trọng thể được tổ chức
cả ngoài Bắc và trong Nam vào ngày 03-6, quy tụ bà con
đồng hương khắp nơi về tham dự
mừng kính vị tử đạo này.
Hậu duệ Thánh Phaolô Vũ Văn Đổng:
Ô. Tôma Vũ Đức Tín, hiện ở Xuyên Mộc,
sđt: 0643-877-663; 01627-101-314.
Ô. Tôma Vũ Trọng Tế, ở giáo xứ Thánh Tâm,
Hố Nai, sđt: 0613-885-590.
Lm Tôma Vũ Khắc Minh, ở giáo phận Kontum,
sđt: 01679-984-138, 059-3864-399.
ĐƯỜNG
VỀ THUẬN NGHĨA – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ
ĐĂNG KHOA
Đền Thánh Khoa: Từ Hà Nội vào, qua khỏi km
405 gặp cầu Giát (thuộc thị trấn Cầu Giát),
đi thêm khoảng 500 mét, gặp đường rẽ bê
tông phía tây, ranh giới giữa khối phố 7 và khối
phố 8, đó đường vào nhà thờ giáo xứ
Thuận Nghĩa. Đền Thánh Khoa ở sát cạnh nhà
thờ. Đền thờ Thánh Khoa hiện nay
được xây cất năm 1992. Hai bên đền
thờ là hai khu đất nhỏ, nơi lưu giữ hài
cốt và chôn cất các linh mục đă phục vụ giáo
xứ. Giữa cổng và Đền Thánh Khoa là những
hàng ghế để bà con giáo dân kính viếng Ngài
Lễ giỗ ngày 24-11 hằng năm tại Thuận
Nghĩa được tổ chức rất trọng
thể, rước và diễu hành đi rất xa vài ba cây
số. Tại miền Nam: lễ giỗ được
luân phiên tổ chức tại các xứ có đông
người gốc Thuận Nghĩa; cứ mười
năm một lần bà con xa xứ lại quy tụ về
quê hương Thuận Nghĩa một lần (năm 2010
là lần thứ hai).
Ông Vũ Đ́nh Ḥe, hậu duệ Cha Thánh năm nay
54 tuổi, hiện đang chăm sóc đền Thánh Khoa.
sđt: 038-3770318; 01655403308. Cũng có thể liên hệ
với ông Vũ Văn Sâm, sđt: 01638-687-376.
Từ Thuận Nghĩa phát xuất rất đông
linh mục và tu sĩ nam nữ. Trong hàng hậu duệ
của Thánh Khoa có Lm Vũ Văn Trí, phó xứ Hiệp
Đức, giáo phận Phan Thiết, sđt: 0933-163-556; cha
Nguyễn Duy Lam ofm (họ ngoại), sđt: 0937-893-885.
ĐƯỜNG
VỀ CHUÔN TRUNG VÀ BÚT QUAI – QUÊ HƯƠNG THÁNH LUCA VŨ BÁ
LOAN
Thánh Luca Vũ Bá Loan sinh tại giáo họ Bút Quai, giáo
xứ Bút Đông và an táng tại thôn Chuôn Trung xă Chuyên Mỹ
– Phú xuyên – Hà nội (Hà Tây cũ). Tại đây có
Đền và Nhà Thờ kính ngài.
Từ Hà Nội theo
Quốc lộ số 1 xuôi về phía nam, tới km 38
hoặc 40, (có ba lối) rẽ phải vào đường
liên huyện, đi khoảng 6 km là tới đền Cha
Thánh Luca.
Chuyên Mỹ là một xă nông nghiệp trù phú, nhộn
nhịp v́ có nghề làm đồ gỗ giả cổ,
chạm khảm lâu đời, rất uy tín. Dân toàn ṭng công
giáo, mộ đạo và rất tôn kính Thánh Luca Vũ Bá Loan.
Kẻ Chuôn gồm ba thôn Thượng, Trung và Hạ cùng
nằm ven sông Nhuệ. Trước khi Cha Luca chết, cả
ba thôn đều đ̣i xin xác cha về an táng. Cha
đồng ư để cho Chuôn Trung lo. Họ chở xác Cha
từ Cầu Giấy về trên sông Nhuệ phải đi
qua Chuôn Thượng. Đoán biết giáo dân Chuôn
Thượng sẽ giữ di hài cha lại để chôn,
họ tổ chức đi hai thuyền. Con thuyền
trống dong cờ mở mang áo quan nhưng bên trong không có
di hài Cha Thánh đi trước, bị giữ lại ở
Chuôn Thượng. C̣n con thuyền nhỏ lặng lẽ
đi sau đă đưa di hài Cha Luca về tới Chuôn
Trung an toàn. Chuôn Trung ở giữa nên cả hai thôn
Thượng và Hạ đều có thể đến
mộ, không xa.
Đền và Nhà thờ kính thánh Luca Vũ Bá Loan ở
Chuôn Trung rất đẹp. Bàn thờ bằng gỗ quư, được
chạm trổ và gắn ngọc trai hồng, trang trọng
và mỹ thuật. Sau nhà thờ, trên tháp cao có tượng
vị thánh tử đạo nh́n về hướng ngôi Đền
kính ngài. Đền được dựng giữa một
hồ nước đường kính khoảng 60m, với
cây cầu nối xinh xắn. Đền xây h́nh lục giác,
hai tầng mái cong, ở mỗi cạnh được
mở bằng 04 cánh cửa gỗ. Tượng Thánh Luca
Vũ Bá Loan được tạc bằng đá quư.
Sinh quán cha thánh Luca Vũ
Bá Loan là thôn Bút Quai – Duy Tiên – Hà Nam (thuộc Giáo xứ Bút
Đông), cách Chuôn Trung 20 km về phía tây nam. Ta trở
lại Quốc lộ 1A, đi tiếp về phía nam,
đến thị trấn Đồng Văn, lên cầu
vượt, rẽ trái vào đường sang Hưng Yên,
khoảng 4km đến chợ Lương (chợ mở
bên vệ đường) qua cầu Lương, là Giáo
họ Bút Quai, nhà thờ cách đó khoảng 800m.
Theo bà con ở Bút Quai, con cháu trực hệ Thánh Luca
Vũ Bá Loan nay không c̣n ai ở làng, chỉ vài người
bà con họ ngoại rất xa của Cha Thánh như vợ
ông Trần văn Chiến, người đang coi sóc Nhà
Thờ và Đền Thánh ở đây. Ông đă 77 tuổi
(2011 - sđt: 01696281890).
Bút Quai là một giáo họ nghèo. Đền Thờ Cha
Thánh vừa được xây xong tháng 6-2010 do giáo dân
tại đây, giáo dân Chuôn Trung, khách hành hương, và
một số linh mục có liên hệ xa gần cùng góp
sức xây dựng. Hàng năm, giáo họ Bút Quai cũng
như giáo dân Chuôn Trung cùng làm lễ giỗ Thánh Luca Vũ Bá
Loan vào ngày 5-6 dương lịch.
ĐƯỜNG
VỀ TRUNG LAO – QUÊ HƯƠNG THÁNH ĐA MINH
VŨ Đ̀NH TƯỚC
Từ Hà Nội muốn về Trung Lao, ta theo Quốc
lộ 1, xuôi nam, qua Phủ Lư, tới Nam Định, đi
vào trung tâm thành phố, lên cầu Đ̣ Quan, và từ
Cầu này đến thị trấn Cổ Lễ
khoảng 20 km. Khi đến gần giữa thị
trấn có một cây cầu nhỏ bên phải, rộng và
dài chừng vài ba mét gọi là cầu Điên Biên. Qua cầu
này, là vào phố Trung Đông – Trung Lao. Sau khoảng 1 km
tới cây cầu thứ tư kể từ cầu Điên
Biên, rẽ trái là đền Cha Thánh Đa Minh Vũ Đ́nh
Tước. Đứng ở trên cầu hay trên
đường cũng nhin thấy được rất
rơ.
Trung Lao là một giáo xứ lớn, có trên 8000 tín
hữu với 10 Họ Đạo và 18 Xóm Giáo (trong đó có
xóm Tây Phong là nơi Thánh Tước Chào Đời và có xây
Nhà Nguyện kính Ngài). Nhà thờ xứ bằng gỗ, Bàn
thờ sơn son thiếp vàng cổ nhất Địa
phận Bùi Chu, khởi công xây dựng cách đây 123 năm
(1888-2011) ngày nay vẫn c̣n trơ gan cùng tuế nguyệt.
Ngày 1.1.2010 Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đă
về xứ đạo nâng Nhà thờ Lên Đền Thánh
với Tước Hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa. tại toà
vàng trong Thánh Đuờng có Tương Thánh Tước
bằng gỗ qúy to cao 2m50 được thực hiện
cách nay cả 100 năm, Đế tượng có hộp
dựng xương của Ngài. Ngoài ra trong khuôn viên khu
vực nhà thờ c̣n có Đài Tưởng niệm với
tượng Thánh Tước đúc bằng đồng, uy
nghi đứng bên cạnh Nhà Truyền thống của Giáo
Xứ. Tại Trung Lao có rất đông người họ
Vũ, rất mộ đạo và cũng rất sùng kính các
Thánh tử đạo, trong đó có Thánh Đa Minh Vũ
Đ́nh Tước. Người đang coi sóc đền
Thánh Tước là ông Vũ Đ́nh Hàm (sđt: 0165232176), Theo
ông Hàm, ở Trung Lao hiện có hơn 200 người theo
đuổi ơn gọi tại các chủng viện và ḍng
tu trên toàn quốc.
Hằng năm, bà con Trung Lao tổ chức lễ
giỗ Cha Thánh Đa Minh vào ngày 19/6 dương lịch,
tổ chức rất trang trọng. Khách hành hương và
khách mời rất đông. Đây là ngày lễ đông vui
nhất trong năm ở Trung Lao.
Trung Lao là một giáo xứ sầm uất, nhôn
nhịp và trù phú. Đa số dân làm nông, một số
người đóng đồ gỗ, khắc và chạm
khảm tinh vi. Tại quê nhà cũng như khi đi làm
ăn xa, giáo dân Trung Lao sống có tổ chức, đoàn kết,
biết chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.
C̣n về ḍng tộc của Cha Thánh Đa Minh tại
Trung Lao hiện có các ông Vinh Sơn Vũ Đ́nh Sơn và
Vinh Sơn Vũ Đ́nh Sản, sđt: 01697149155. Cha Giuse
Vũ Thanh Cảnh - Chính xứ
Muốn t́m hiểu rơ hơn, xin mời vào trang
Giới trẻ Đồng Hương Trung Lao:
http://gioitretrunglao.webnode.com.
ĐƯỜNG
VỀ HÀ THẠCH – QUÊ HƯƠNG THÁNH PHÊRÔ VŨ TRUẬT
Thầy giảng Phêrô Vũ Truật là vị Thánh
tử đạo duy nhất của Giáo phận Hưng Hóa,
quê tại giáo xứ Hà Thạch. Giáo phận Hưng hóa
nằm phần lớn ở trung du, miền núi Bắc
bộ đất đỏ. Giáo xứ Hà Thạch thuộc
góc đông nam Thị xă Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; sát
đường tỉnh lộ 320, ven bờ sông Hồng.
Hiện tại giáo xứ này có đền kính thánh Phêrô
Vũ Truật. Tượng đài và đền thánh
tọa lạc trên một khu đất rộng.
Đền thánh được khởi công xây dựng ngày
18-12-1997, do linh mục Phêrô Phùng Văn Tôn, và được
Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đ́nh Tụng
cắt băng khánh thành, dâng lễ làm phép đền và
tượng, ngày 18-12-1998.
Trên đường t́m nối kết ḍng họ, tôi
có dịp gặp gỡ một số đạo hữu Cao
Đài và có chung với nhau những kỷ niệm
đẹp.
Trong những bản sao gia phả từ những
địa phương khác nhau của Hà Tĩnh, có một
vị ở đời thứ tư, ông Vơ Mạnh, hầu
như mọi bản sao đều ghi là "vô tự",
chỉ riêng bản của từ đường La
Mạc, xă Phong Thịnh, ghi rằng hậu duệ của
vị này hiện phát triển tại Phù Mỹ, B́nh
Định; một người trong nhánh này là Chánh Quản
cơ Vơ Vệ đă về t́m họ. Tôi đă sao quyển
gia phả này ra nhiều chục bản và đi Phù Mỹ
t́m nhưng không gặp được manh mối.
Tháng Mười, 2012, sau tang lễ một bà cụ
họ Vơ, ông Trưởng ban Liên lạc họ Vơ Công giáo
B́nh Định cho biết có người nhờ ông
chuyển cho tôi một bản gia phả. Người này
chưa hề biết bản gia phả Phong Thịnh tôi đang
phát hành. Ông ta chỉ c̣n giữ được không
đầy mười trang chắp vá rơi rớt lại
từ một công tŕnh gia phả, nay muốn nhờ tôi xem
và cho ư kiến. Tôi cầm lên th́, chao ôi, ngay ở trang
đầu tiên, danh tính người tôi đang đi t́m
được tô đậm: Ông VƠ VỆ, thời Tự
Đức. Chỉ sót lại mấy trang nhưng
đủ thông tin để có thể xác lập liên quan
giữa người đang sở hữu gia phả
với gốc tổ Hà Tĩnh. Người tặng tài
liệu nhận tôi làm anh v́ ông tổ của tôi là
trưởng tộc, c̣n ông tổ anh ta là em trai thứ
tư.
Tiếp đó, một cụ niên trưởng
người lương đă chở tôi bằng xe máy, từ
sáng sớm đến trưa, đưa tôi đến
thăm bốn từ đường nằm trên
địa bàn ba huyện khác nhau của tỉnh B́nh Định:
Tuy Phước, Phù Cát và An Nhơn. Bất ngờ lại có
được một thông tin hết sức quư mà tôi
chưa hề nghĩ tới, chưa hề mong chờ.
Nhánh thứ nhất chúng tôi đến thăm là chi
tộc Vơ Tấn ở thôn An Lợi, phát xuất từ
tỉnh Hà
- Họ Vơ của chúng tôi phát xuất từ huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Thạch Hà là huyện quê nhà của tôi. Không dám tin vào
tai ḿnh, tôi hỏi lại:
- Ông bảo sao: Từ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh?
Một thông tin đến từ phía không ngờ,
từ một người chúng gọi chỉ để xin
số điện thoại người khác. Thông tin này
trở thành chủ đề cho câu chuyện của chúng
tôi tại ba từ đường chúng tôi đến
thăm hôm ấy. Trong bữa ăn trưa, các vị
hiện diện đă yêu cầu tôi giúp t́m gạch nối
giữa tổ phụ Vơ Quang Biều và gia phả Thạch
Hà.
Bảng tông đồ 14 đời được
phục chế đang trưng bày ở nhà cụ Vơ Kế
Đức lên tới tổ Vơ Quang Biều. Ông Vơ Quang
Biều và con trai ông là những vơ quan chỉ huy một
chiến thuyền. V́ một lư do nào đó, thuyền bị
ch́m, có nguy cơ bị kết án nặng, cho nên họ
đă chạy trốn vào tận Vũng Tô, một thung
lũng nhỏ ven biển nằm khuất giữa ba
mặt núi (nay thuộc thôn Tân Thanh, xă Cát Hải).
Trong gia phả Hà Tĩnh những thế kỷ xa
xưa không thấy có ai mang tên Biều. Tuy nhiên với chút
kinh nghiệm luận giải gia phả đă học,
cuối cùng tôi đă kết luận được vị
tổ ấy là ai trong bản gia phả Hà Tĩnh và tại
sao hai tên gọi khác nhau chỉ là một người.
Tôi thông báo kết quả và mời các vị
đại diện tới Ṭa Giám mục Qui Nhơn trao
đổi để soi sáng thêm cho luận giải của
tôi. Ngoài cụ Đức, năm vị đại diện
ba nhánh kia đều là tín hữu Cao Đài. Có thêm bốn
anh em các nhánh Công giáo cũng được mời tới
gặp gỡ. Mọi người phấn khởi khi
nối được gia phả với gốc xưa.
Kết thúc đă 11 giờ. Tôi mời mọi người
đi ăn trưa. Có bốn vị là chức sắc Cao
Đài xua tay:
- Xin lỗi huynh, bọn đệ ăn chay.
Để bọn đệ tự liệu lấy.
- Thôi mà, nể nhau một bữa, mừng ngày
nhận ra nhau là anh em, phá lệ ăn cơm người
Công giáo nấu xem có ngon lành ǵ không!
- Không được. Bọn đệ đă phát
nguyện ăn chay trường.
- Đùa thôi. Bây giờ đến lượt tôi
phải kêu gọi các vị Công giáo, xin mời tất
cả cùng đi dùng cơm chay với quư huynh đệ Cao
Đài.
Tôi đă đặt sẵn cơm chay tại quán Thanh
Minh ở đường Phan Bội Châu, chủ quán là
một ông biện giáo xứ Chính Ṭa Qui Nhơn.
*
Khi tôi nêu câu hỏi tại sao Đạo Chúa có
mặt ở Việt Nam đă gần 500 năm mà không
thấy ḍng tu nào đưa chay lạt vào chọn lựa
của ḿnh, nhiều người bảo rằng v́ chay
lạt ôm theo ḷng tin về luân hồi. Bạn có thể
kiểm chứng ngay bên cạnh bạn rất nhiều
người thực hành chay lạt cho dù không hề tin luân
hồi. Để ư kỹ ta sẽ thấy tự thâm sâu,
những người thờ cúng Ông Bà không tin vào luân hồi.
Dựa trên tập tục chỉ giữ bài vị ở nhà
năm đời, sang đời thứ sáu th́ đem
gộp chung ở từ đường hoặc đem
chôn, người ta nói rằng người chết ở
với con cháu năm đời rồi sau đó đi
đầu thai. Trong thực tế th́ dù đă sáu bảy
đời hay mười mấy đời, con cháu vẫn
tin rằng Tổ Tiên đang ở đó và vẫn chân thành
cầu khẩn.
Quan niệm chay tịnh của người Công giáo và
người lương khác nhau, một bên nhằm chia
sẻ với những đau thương của Chúa
Cứu Thế trong cuộc Thương khó, một bên
nhằm phát huy ḷng nhân từ, nhưng trước đó
cả hai bên có cùng một điểm chung, và cũng là
điểm chung với nhiều người thiện chí,
muốn tiến bước trên đường “tâm linh”: Sự
thanh tẩy giác quan. Việc nhịn đói, kiêng thức
ăn động vật, bỏ thuốc lá hay bỏ
rượu đều là những nỗ lực nhằm làm
chủ giác quan, vượt thoát những đ̣i hỏi
của giác quan để bước đi trong tự do.
Để đặt vấn đề loan báo Tin mừng
cách nghiêm túc, để đạt kết quả,
người Công giáo không thể thoái thác cuộc chạy
đua trong việc làm chủ giác quan.
Bản thân tôi vẫn thường xuyên dùng thực
đơn chay lạt, chẳng phải v́ tôi thương
các con vật nhưng chỉ v́ tôi rất yêu quư bà con
lương dân và các Phật tử quanh tôi, khao khát
đồng cảm với tâm nguyện tốt lành của
họ để cầu nguyện cho họ được
ơn đức tin. Không riêng tôi mà thiết tưởng
hiện đang có không ít anh chị em Công giáo khác cũng cùng
chung một tâm nguyện ấy. Chắc hẳn cả
những anh chị em lương dân bán tín bán nghi về
chuyện luân hồi, khi biết có nhiều người tin
Chúa thực hành chay lạt, họ sẽ hiểu ra phải
tin theo bên nào mới đúng.
Tết Quư Tỵ, Trung ương Ḍng họ từ Hà
Nội viết thư cho hai vị khác và cho tôi, yêu cầu
cả ba hợp tác xúc tiến thành lập Hội
đồng Ḍng họ Vũ-Vơ tỉnh B́nh Định.
Đó cũng là lúc Ban Liên lạc Vơ tộc Công giáo tỉnh
B́nh Định đang chuẩn bị cuộc sinh hoạt
lần thứ tư. Đoàn hành hương khoảng 250
người, trong đó khoảng một phần tư ngoài
Công giáo, đă đi thăm bốn từ đường
người lương và dừng chân dâng lễ và ăn
trưa tại một nhà thờ Công giáo, nơi có mộ
một vị tiền hiền Công giáo họ Vơ. Trong dịp
này, vị nhận lời làm Chủ tịch Ban Chấp hành
lâm thời của Ḍng họ tại Tỉnh B́nh
Định đọc lá thư của Trung ương,
rồi vạch phương hướng xây dựng và
tổ chức Đại hội cấp Tỉnh.
Tôi nhận lời tham gia làm một ủy viên
thường trực của ban Chấp hành Hội
đồng Ḍng họ Vũ-Vơ tỉnh B́nh Định.
Nhờ đó, tôi có dịp theo anh em trong Ban thường
trực đến dự sinh hoạt tại các huyện và
được gặp gỡ thêm rất nhiều
người cùng chung một mối đồng cảm
về Ḍng họ. Lắng nghe những chia sẻ tại
những sinh hoạt ấy, tôi càng thấy rơ đây là
thời của những cơn mưa ơn phước.
Lúa chín đầy đồng và có ai đó đă gặt
chất nghều nghệu hai bên bờ, chỉ c̣n việc
đem về nhà, tiếc rằng người ta chểnh
mảng không chịu đem về cho nên lũ lại
cuốn trôi tất cả.
Vị đứng đầu Ban Chấp hành Ḍng
họ chúng tôi tại Tỉnh này mấy lần ngỏ
lời muốn nhóm thường trực gặp nhau trong
một bữa ăn tại một nhà xứ nào đó. Có
lẽ v́ sinh hoạt liên kết ḍng họ chúng tôi ở
đây do anh em Công giáo khởi xướng cho nên ông muốn
có một dịp bày tỏ thân t́nh. Tôi ở nhà hưu
dưỡng, không có điều kiện. Đang khi đó, sáu
trong bảy người của nhóm này có quen biết linh
mục nhạc sĩ Ánh Đăng. Tôi ngỏ lời và cha
Ánh Đăng sẵn sàng mời và cũng sẵn sàng
đáp ứng theo thực đơn vị ấy đề
nghị: thịt chó.
Gần tới ngày hẹn, cha Ánh Đăng gọi
cho tôi:
- Trong bảy người, có một phụ nữ, bà
ấy ăn thịt chó được không?
- Ḿnh không rơ, nhưng vấn đề có thể
chạm đến một trong mấy người đàn
ông: Ông ta là một dược sĩ, 65 tuổi, ăn chay
lạt mỗi tháng 12 ngày.
- Làm thế nào bây giờ?
- Anh cứ giúp cái thực đơn kia, c̣n đồ
chay, tôi sẽ nhờ người làm và đem tới.
Tôi khá thân với vị dược sĩ. Ông rất
linh động, gặp ngày chay, người ta mời ǵ ông
vẫn ăn nấy rồi ăn chay bù lại ngày khác sau.
Tôi đặt đồ chay không chỉ để tỏ
ḷng kính trọng ông mà c̣n để ông biết trong Hội
thánh Công giáo vẫn có người đồng hành với
ông. Hôm ấy, người khách phụ nữ ăn thịt
chó nhưng một tài xế rất trẻ lại ăn
chay. Phía ăn chay có ba người: vị dược
sĩ, cậu tài xế và một linh mục. Phía ăn
mặn có hai linh mục, một giáo dân và bốn
người ngoài Công giáo. Bên nào cũng có nửa kư và
nửa cân.
Dấn thân truyền giáo, tôi nhận ra rằng
thuở ban đầu người Việt hăm hở
đón chào Tin mừng cứu rỗi v́ khám phá ở đó
những giá trị trổi vượt hẳn những ǵ
họ đang có. Cả tín lư và luân lư Công giáo đều
hợp lư, trong sáng và cao cả, đáng tin nhận. Chưa
đầy sáu năm, nhà truyền giáo trẻ 31 tuổi làm
việc tại Quảng Ngăi – Marie André Garin (cố Châu) –
đă rửa tội hơn 1.200 người lớn và
hơn 10.000 trẻ nhỏ. Họ đă theo tôn giáo của
ông Tây trẻ tuổi, nói tiếng Việt trọ trẹ,
v́ nhận thấy ở đó những giá trị cao cả
mà văn hóa cổ truyền không sao sánh được.
Thế nhưng ngày nay mọi chuyện không c̣n
đơn giản như thế. Những tài liệu xuyên
tạc Đạo Chúa, bắt đầu với “Tây
Dương Gia Tô bí lục” và tiếp tục với
nhiều sách báo, phim ảnh và trang mạng vu khống, bôi
nhọ Đạo Chúa, anh chị em lương dân hiện
đang có những ấn tượng xấu rất khó phai
mờ về người Công giáo. Bên cạnh đó,
cuối thế kỷ XIX, sách vở Phật giáo đều
bằng ngoại văn và chưa phổ biến rộng
răi đến đại chúng; c̣n cuối thế kỷ XX,
kinh điển Phật giáo được dịch ra
quốc ngữ, nhiều tác phẩm tŕnh bày Phật giáo cách
mới mẻ và lôi cuốn.
Ngôn ngữ Phật giáo xây nền trên vốn từ
Hán Việt, có bề dày hàng chục thế kỷ, càng
đào bới càng sâu. Đang khi đó, ngôn ngữ của
giới Công giáo có hai phần: Những kiểu nói thuần
nôm sớm bị lỗi thời, những kiểu nói vay
mượn của Hán Việt th́ chưa sàng lọc
đủ, hỗn độn, không thống nhất… Cả
hai đă khiến cho văn chương nhà đạo
bị đẩy lùi và gạt sang bên lề ḍng văn
học của cộng đồng dân tộc… Thay v́ sức
hút mănh liệt của thuở đầu, ngày nay sách vở
nhà đạo lại gây dị ứng, khó được
tiếp nhận.
Thêm vào đó, Phật giáo được lan truyền
bằng con đường thực hành, bằng chứng
nghiệm bản thân, tạo nên cho đại chúng tín
đồ một trào lưu xác tín mạnh mẽ. Những
ai đă tiếp cận với thiền định và chay
lạt đều cảm thấy rằng đó là những
giá trị khó thay thế.
Đang khi đó, người Công giáo Việt
Trước mắt người Công giáo đang
mở ra một cuộc chạy đua với anh em Tin lành
và chạy đua với các tôn giáo phương Đông:
chạy đua về các giá trị. Quả là một thách
đố hết sức lớn nhưng đồng
thời, với ơn Chúa, đây lại đang là một
cơ hội có một không hai để tiến nhanh
vượt bậc.
Khi biết nh́n nhận thiện chí và những kinh
nghiệm của anh chị em lương dân, như sự
thinh lặng và chay tịnh, chúng ta sẽ có thêm những
điều kiện mới để sống triệt
để các giá trị Tin mừng. Qua đó, anh chị em
lương dân sẽ thấy rơ thiện chí của chúng ta, và
đến lượt họ, sẽ mở rộng cửa
ḷng để đón nhận ánh sáng của ơn cứu
rỗi.
Giữa lúc xă hội quay cuồng với văn minh
tiêu thụ, đang âm thầm lan tỏa một niềm khao
khát các giá trị tinh thần, ngay cả nơi những
bạn trẻ rất ít tuổi. Trào lưu ấy đ̣i
chúng ta, nếu muốn loan báo Tin mừng, phải có kế
sách tỏa sáng các giá trị Tin mừng trong cuộc
sống.
Chúng ta có những giá
trị nổi bật: chân thật, công bằng, bác ái,
bảo vệ sự sống… Tuy nhiên có thể những giá
trị ấy đang bị lu mờ do nhiều anh chị
em thiếu ư thức, không c̣n cố gắng phát huy. Đang
khi đó, việc thực hành chay lạt đang nở
rộ như một giá trị trổi vượt.
Mỗi lần tham gia bàn thảo chọn ngày họp
mặt đồng tộc có chuyện ăn uống đi
kèm, tôi thường nghe người ta cân nhắc
để tránh ngày rằm và mừng một, nghĩa là tránh
ngày chay lạt. Tỉ lệ số người thực
hành chay lạt khá lớn.
Nhiều người ăn chay để cầu phúc,
để được thành công, buôn may bán đắt. Tuy
nhiên nhiều phụ huynh khuyên con cái ăn chay v́ mục
đích giáo dục. Họ mong muốn cho con em biết
sống thanh thoát, nhân ái, điềm đạm. Chay lạt
gia tăng ḷng nhân ái. Nó dạy trẻ em tôn trọng cả
con muỗi, con kiến. Giống hệt tâm niệm của
các hướng đạo sinh sói con: “Hướng
đạo sinh yêu thương loài vật”. Nếu với
những con vật bé nhỏ làm hại ta mà ta c̣n nhân từ
tha thứ, tôn trọng mạng sống của chúng th́ không
có lư do ǵ đế ta được nóng giận với
người đồng loại. Nhờ ăn chay, bạn
trẻ biết sống hiền lành, nói năng nhỏ
nhẹ, lịch thiệp. Đó là chưa kể những
lợi ích về dinh dưỡng, giúp tránh nhiều bệnh
tật, đă được khoa học chứng
nghiệm. Những bạn trẻ này thường không
biết ǵ về giáo lư nhà Phật nhưng họ xác tín giá
trị của chay lạt và sẽ không chấp nhận
một chọn lựa nào chống lại xác tín ấy.
Nói thật ra, có lẽ nhiều người
tưởng rằng kiêng cả thịt lẫn cá là
điều ǵ khó lắm. Trong thực tế không khó ǵ
cả. Nhất là nếu chúng ta có tấm ḷng nghĩ
đến phần rỗi của anh chị em lương
dân, chúng ta sẽ thấy chay lạt là điều lư thú và
có lợi nhiều mặt. C̣n nếu đă ngại hy sinh
cố gắng th́ chắc hẳn bao giờ cũng có
thể vịn hết cớ này đến cớ nọ
để lẩn tránh.
Trước đây, việc kiêng thịt ngày Thứ
Sáu đă thành thông lệ. Người nội trợ Công
giáo nhớ ngay rằng Thứ Sáu không mua thịt. Xă hội
bên ngoài cũng nh́n nhận điều ấy như một
thực tế. Hằng tuần cứ tới Thứ Sáu là
lượng thịt bán ở chợ tự động
giảm hẳn, tôm cá được bày bán nhiều hơn.
Người ta lấy cớ thời chiến để xin
Ṭa Thánh chuẩn miễn. Nay th́ thời chiến đă lùi
vào quá khứ đến gần bốn mươi năm và
Sách Giáo Lư Hội Thánh Công Giáo 1992 vẫn khẳng
định điều răn kiêng thịt nhưng
chẳng hiểu tại sao người ta lại cứ
lờ đi.
Để việc truyền giáo đạt kết
quả, cần khẳng định lại việc kiêng
thịt ngày thứ Sáu, và đi xa hơn một bước
nữa: kiêng luôn cả cá. Tại đây c̣n một chi
tiết nữa rất đáng suy nghĩ: Người
lương giữ chay không do luật buộc mà do tự
phát nguyện. Thánh Phaolô cũng từng phát nguyện như
thế: “Phạm đến anh em và làm thương tổn
lương tâm yếu đuối của họ là phạm
đến Đức Ki-tô! V́ thế, nếu
của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngă, th́ tôi sẽ không
bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm
cớ cho anh em tôi sa ngă” (1Cr 8,12-13).
Vấn đề chính yếu ở đây là cần
chia sẻ quan niệm về chay tịnh của
phương Đông là tôn trọng sinh mạng của muôn
loài. Không phải là chay trường, chỉ cần giữ
tất cả các ngày Thứ Sáu, mỗi tháng được
bốn ngày, cũng bằng ba mươi, mùng một,
mười bốn và rằm cộng lại.
Trong bài "Những nẻo đường hồn
nhiên của Tin mừng - 9" giới thiệu trên mạng
internet đầu năm 2010, tôi đă kể về kinh
nghiệm chay lạt của bản thân tôi. Qua kinh nghiệm
ấy, tôi hiểu tại sao người ta quư chay lạt.
Những người đă phát nguyện ăn chay
trường khó mà từ bỏ điều ấy
để theo Kitô giáo. Những người chưa qua kinh
nghiệm chay trường ít lâu, khó hiểu được
rằng người cảm nhận sự thanh cao của
nó và quư trọng chẳng khác nào người tu sĩ Công
giáo cảm nhận và quư trọng ơn độc thân
khiết tịnh.
Với kinh nghiệm ấy, tôi nhận ra một lư do
hệ trọng lư giải tại sao ngày nay không c̣n hiện
tượng người Việt theo Kitô giáo ồ ạt
như mấy thế đầu của cuộc truyền
giáo. Xưa kia người dân ồ ạt tin theo Đạo
Chúa, v́ nhận thấy ở đó những giá trị cao
cả mà văn hóa cổ truyền không sao sánh
được. Ngày nay anh chị em lương dân từ
chối theo Đạo Chúa cũng v́ lư do tương
tự. Họ khám phá và xác tín sự cao quư của chay
lạt cùng những hoa quả tự nhiên và tâm linh phát
xuất từ chay lạt: sự hiếu ḥa, ḷng từ bi
nhân ái, sự từ bỏ, một thân xác và tâm hồn thanh
tịnh, sự ḥa hợp với thiên nhiên đă khơi
nguồn và thấm sâu vào tâm hồn họ nhờ chay
lạt. Họ xác tín không phải do xưa bày nay làm nhưng
với những sách vở và chứng nghiệm rất rơ
theo khoa học. Lập luận hết sức đơn
giản: Tại sao phải bỏ một con
đường có những giá trị cao cả như
thế để đi theo một con đường
thiếu vắng những giá trị ấy?
Tôi viết bài này không phải để đề
nghị các Bề Trên trong Giáo hội buộc giáo dân ăn
chay lạt. Sự thành công và thuyết phục của chay
lạt chính là ở chỗ nó không phải là một
luật buộc nhưng là một giá trị cuốn hút. Suy
nghĩ của tôi là thế này: Khi chúng ta biết nh́n
nhận và đón nhận những giá trị cao quư của
anh em, anh em sẽ nh́n nhận và đón nhận những giá
trị cao quư gấp bội của Tin mừng. Tôi không
chờ đợi những quyết định của các
Bề Trên trong Giáo hội nhưng chờ đợi sự
hưởng ứng của chính bạn, người
đang đọc những ḍng này.
Ước mong các đồng đạo trẻ
của tôi, cách riêng là những người tận hiến
trẻ, sẽ nhập cuộc nghiên cứu vấn
đề này, không chỉ trên giấy bút nhưng
trước hết bằng thực nghiệm bản thân. Các
bạn và tôi, không những chúng ta sẽ gặt hái
được những ích lợi phần xác và phần
hồn mà c̣n được đón nhận cả những
linh hồn tuyệt vời của các anh chị em chúng ta
nữa.
Năm 1997, cuối thánh lễ an táng một linh
mục, người ta hát bài “Từ vực sâu u tối”.
Sau đó một giáo dân tâm sự với tôi:
- Con nghe bài hát mà nản ḷng và bất măn quá! Ông cha này
ai cũng biết là rất tốt, rất đạo
đức thánh thiện, tại sao vừa chết xong
lại bị đày xuống vực sâu, bị tống vào
ngục tối ngay lập tức vậy?
Lời chia sẻ khiến tôi giật ḿnh. Chính
bản thân tôi cũng đă nhiều lần cảm
nghiệm nhận ra sự trái khoáy ấy mà không lấy làm
điều, nhưng đối với những
người đang kiếm t́m đức tin th́ quả t́nh
bài ca có thể khiến họ nghĩ: Cách nh́n về cái
chết của người Công giáo thật mâu thuẫn. Có
những lần tôi hiện diện trước áo quan anh
chị em ḿnh trong tâm t́nh chúc mừng, mừng v́ Chúa Kitô
Cứu Thế vừa khẳng định thêm một
chiến thắng không thể đảo ngược, trong
lúc bên tai tôi người ta đang rên rỉ câu kinh từ
vực sâu ai oán. Thật hết sức lạc điệu
nếu giữa tâm t́nh rộn ră của đêm chia tay trước
khi cô dâu lên xe hoa về nhà chồng, chợt có người
cất tiếng: Từ vực sâu tối tăm!... Vâng,
nhiều trường hợp chúng ta cầu nguyện bên
người vừa nằm xuống trong bầu khí họp
mừng vượt qua, và như muốn tha thiết nói
với Tân Lang rằng: Xin hăy cảm thông, vui ḷng chờ cho
chúng em được tỏ chút luyến lưu bịn
rịn; chỉ vài giờ nữa thôi, chúng em sẽ
để cho Chàng tự do đưa bạn ấy lên
đường…
Tôi đă hứa sẽ viết bài về vấn
đề này. Giới Công giáo đă quá quen tai cho nên không
để ư rằng bài hát mang h́nh ảnh vực sâu tối
tăm có thể gây phản cảm nặng nề nơi
người ngoài Công giáo. Người ta đồng ư
rằng người Công giáo luôn tưởng nhớ
đến người đă khuất rất nhiều,
nhưng cách nhớ tưởng ấy rất khác với
tâm t́nh người Việt. Người Việt nhớ
đến Ông Bà Cha Mẹ đă khuất và xin các ngài phù
hộ cho con cháu, c̣n với người Công giáo, h́nh như
Ông Bà Cha Mẹ chết xong là rơi vào thảm trạng bi
thương. Hiện nay, không chỉ có một bài mà
đến bốn, năm bài hát với h́nh ảnh vực
sâu tối tăm, từ chốn luyện h́nh u tối.
Những bài này thịnh hành đến nỗi buổi kinh
hoặc thánh lễ tưởng nhớ người
chết mà không hát một trong mấy bài ấy th́
dường như c̣n thiếu sót.
Vừa qua, sau 15 năm gặp lại người
giáo dân nọ, chúng tôi nói chuyện khác, nhưng tôi chợt
nhớ một món nợ chưa trả.
Tôi về mở quyển “Nghi Lễ An Táng và Thánh
Lễ Cầu Hồn”, Ủy ban Giám mục về Phụng
tự xuất bản, Sài G̣n 1971, dày 230 trang, thấy
phản ứng của người ấy rất đúng.
Quyển sách gồm có 5 lời hiệu triệu, 152 lời
nguyện, 9 bài Cựu ước, 8 đoạn
xướng đáp và lời cầu , 26 thánh vịnh, 11 câu
xướng alleluia và 20 bài Tân ước chưa kể
kể 19 bài Tin mừng, 5 kinh Tiền tụng, 3 Kinh
nguyện Thánh Thể… Suốt bằng ấy nội dung,
tiếng "vực sâu" chỉ xuất hiện trong
một bản văn duy nhất là thánh vịnh 129/130
được in lại 6 lần ở các trang 19, 23, 28, 56,
84 và 125. Thánh vịnh này được đề nghị
dùng làm đáp ca, và ở các trang 28, 56 và 84 có hai câu đáp
để chọn là câu 1: “Từ vực sâu, Lạy Chúa, tôi
kêu lên cùng Chúa” hoặc câu 5: “Tôi hy vọng rất nhiều
vào Chúa, tôi trông cậy ở lời Người”; ở
trang 19 và 23 có hai câu đáp để chọn là câu 1: “Lạy
Chúa, tôi kêu lên cùng Chúa”, bỏ cụm từ “Từ vực
sâu”, hoặc câu 6: “Linh hồn tôi mong đợi Chúa tôi”,
ở trang 125 không có câu đáp. Như thế ở đây
phụng vụ cũng đọc thánh vịnh này với
tất cả sự lạc quan tin tưởng như khi
trích đọc nó trong Kinh chiều II của Lễ Giáng
sinh.
Các nhạc sĩ Việt
Những bài thánh ca chủ đề vực sâu
thật hay, tiếc là không đúng phụng vụ cũng
không sát giáo lư Công giáo. Tiếc hơn nữa là chúng đă gây
những ngộ nhận rất lớn cả cho
người Công giáo lẫn người ngoài Công giáo.
Vấn nạn được nêu lên không phải là
thắp nhang hay đặt đồ cúng nhưng là theo Chúa
th́ mất đi cái nh́n lạc quan đầy hy vọng
của Đạo Hiếu khi nghĩ về tiền nhân! Do
chưa nhận biết mạc khải, người
Việt chưa diễn tả bằng ngôn từ chính xác
nhưng cách ứng xử cho thấy dường như
đa số linh cảm rằng tiền nhân qua đi là
về với Cội Nguồn tối thượng. Cùng lúc,
người sống vừa cầu mong cho người
chết sớm siêu thoát vừa xin người chết phù
hộ. Cái nh́n ấy khá gần với giáo huấn trong sách
"Giáo Lư Của Hội Thánh Công Giáo". Sách này không
hề nhắc ǵ đến một vực thẳm hoặc
một nơi chốn. Với tựa đề
"Luyện ngục: cuộc thanh luyện cuối
cùng", số 1030 của sách này nói đến sự
"thanh luyện sau khi chết, để đạt
được sự thánh thiện cần thiết":
"Những người chết trong ân nghĩa Chúa,
nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn,
mặc dù chắn chắc được cứu độ
đời đời, c̣n phải chịu thanh luyện sau
khi chết, để đạt được sự
thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc
Thiên Đàng.
Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng
của những người được chọn là “purgatory”.
Dù ta quen dịch là luyện ngục, thuật ngữ này
chỉ đơn giản là một t́nh trạng thanh
luyện, không phải vực, cũng không phải là
ngục tối. Điều này khác hẳn với h́nh
phạt đời đời của kẻ bị chúc
dữ: Hội Thánh công bố giáo lư về luyện ngục
cách riêng trong các công đồng Flôrence (x. DS 1304) và Trentô (x.
DS 1820; 1580). Dựa vào một số đoạn Kinh Thánh (x.
1Cr 3,15; 1Pr 1,7), Hội Thánh nói về lửa thanh luyện.
"Đối với một số tội nhẹ,
phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh
luyện. Chúa Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm
đến Chúa Thánh Thần người ấy sẽ
chẳng được tha cả đời này lẫn
đời sau (Mt 12,31). Qua khẳng định này, chúng ta có
thể hiểu là một số tội có thể
được tha ở đời này, nhưng một
số tội khác th́ phải đợi tới đời
sau" (x. T. Grêgôriô cả, đối thoại 4,39).
Lời dạy này cũng căn cứ trên tập quán
cầu nguyện cho những người quá cố mà Kinh
thánh đă nói: v́ thế ông Giuđa Macabêô "xin dâng lễ
đền tội cho những người chết,
để họ được giải thoát khỏi
tội lỗi" (2 Mcb 12,46). Ngay từ đầu,
Hội Thánh vẫn kính nhớ người quá cố và
cầu nguyện cho họ, đặc biệt trong thánh
lễ (x. DS 856) để một khi được thanh
luyện họ có thể hưởng nhan Thánh Chúa. Hội
Thánh khuyên chúng ta bố thí, làm việc hăm ḿnh và
nhường các ân xá cho những người đă qua
đời.
"Chúng ta hăy giúp họ và hăy nhớ đến
họ. Nếu các con của ông Gióp đă được
thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (G
1,5), tại sao chúng ta c̣n nghi ngờ là những lễ
tế của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, để cầu cho
người quá cố, lại không đem đến cho
họ một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp
đỡ và cầu nguyện cho những người
đă qua đời"(x. T. Gioan Kim Khẩu, Bài Giảng
về 1Cr 41,5).
Thánh vịnh 129/130 quả có được dùng trong
sách “Nghi Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn”, tuy nhiên
đọc kỹ, sẽ thấy ở đó Hội Thánh
nhấn mạnh hai điều: hoặc là sự kiện
con người không thể tự cứu ḿnh, hoặc là
niềm khát vọng sớm được cứu thoát
chứ không hề nhấn mạnh thảm cảnh “vực
sâu”. Ước mong các cấp thẩm quyền của
Hội Thánh sớm nghiên cứu lại để tránh t́nh
trạng phản tác dụng cho việc loan báo Tin mừng
tại Việt
Cụ thể, Ban Thánh Nhạc toàn quốc có thể
giúp giải quyết vấn đề cách nhẹ nhàng
bằng một tuyển tập thánh ca cho lễ an táng và
cầu hồn. Hiện nay trong rừng thánh ca Việt Nam,
có nhiều bài rất hay cả về nhạc, về
lời, về h́nh ảnh và về thần học hy
vọng để cầu nguyện lúc anh chị em tín
hữu lên đường về với Chúa, nhưng
chỉ mới được biết đến ở
một số cộng đoàn hay một số địa
phương. Ước mong Ban Thánh Nhạc sớm thu
thập và đề cao những bài ấy để
phổ biến cho mọi người, và đừng
đưa những bài không chuẩn về thần học
hoặc dễ gây hiểu lầm vào tuyển tập. Hy
vọng như thế dần dần thói quen dùng những
bài thảm sầu như nói ở trên sẽ lùi vào quá
khứ.
Để độc giả có thêm cơ sở suy
nghĩ về điều vừa chia sẻ ở bài
trước, và áp dụng vào việc loan tin mừng cho Ḍng
họ, tôi xin được lược tóm ở đây
giáo huấn của Đức Bênêđictô XVI trong thông
điệp Spe Salvi: “Được cứu rỗi trong đức
trông cậy”.
Thông điệp Spe Salvi số 45 có nhắc
đến quan niệm Do Thái giáo "cho rằng các linh
hồn đang sống trong một h́nh thức bị
tạm giam,… đang phải chịu phạt hay đang
được hưởng một h́nh thái hạnh phúc
tạm thời" và lập tức cho rằng quan
niệm ấy đă bị đầy lùi vào quá khứ.
"Giáo Hội sơ khai tiếp nhận các quan
điểm này, và trong Giáo Hội Tây Phương, chúng
dần dần được phát triển thành học
thuyết về Luyện Ngục. Chúng ta không cần xem xét
ở đây các nẻo đường phức tạp trong
lịch sử sự phát triển ấy; mà chỉ cần
hỏi xem điều này thực ra có ư nghĩa ǵ"
(số 45).
Điểm chính yếu trong học thuyết Spe Salvi
về luyện ngục, ở số 47, là sự thanh
luyện trong t́nh yêu của Đấng Thẩm Phán và,
ở số 48, mối hiệp thông trong Hội Thánh
khiến ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn
đang được thanh luyện. Xin trích nguyên văn
số 47:
"Một vài thần học gia mới đây có ư
kiến cho rằng lửa vừa thiêu đốt vừa
cứu chuộc chính là Chúa Kitô, vị Thẩm Phán và là
Đấng Cứu Thế. Cuộc gặp gỡ với
Ngài là hành động phán xét chung cuộc. Trước ánh
mắt Ngài, tất cả những ǵ là giả trá sẽ tan
biến. Sự gặp gỡ Ngài trong khi thiêu đốt
chúng ta, lại cải biến chúng ta, và giải thoát chúng
ta, khiến cho chúng ta trở nên con người chính
thật của ḿnh. Tất cả những ǵ chúng ta xây
dựng trong đời có thể chỉ là rơm rạ,
rỗng tuếch và sụp đổ. Vậy mà trong cái
đau đớn của cuộc gặp gỡ này, khi
những dơ bẩn, và bệnh hoạn của cuộc
đời được phơi bày ra trước mắt
chúng ta, th́ ơn cứu độ nằm ngay ở đó.
Cái nh́n của Chúa, sự va chạm của trái tim Ngài
chữa lành chúng ta qua một biến cải chắc
chắn là đau đớn "như đi qua
lửa".
Nhưng đó là một sự đau đớn
được chúc lành, trong đó quyền lực cực
thánh của t́nh yêu Ngài xuyên thấu chúng ta như một
ngọn lửa, giúp chúng ta trở nên hoàn toàn là chính ḿnh và
nhờ đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Bằng cách này
sự tương quan giữa Công Lư và ân sủng cũng
trở nên rơ ràng; cách thức chúng ta sống trên đời
không phải là không quan trọng, nhưng tội lỗi
của chúng ta không gây t́ ố trên chúng ta măi măi nếu ít ra
chúng ta vẫn tiếp tục vươn ra để
đến với Chúa Kitô, đến với sự
thật và t́nh yêu.
Thật vậy, tội lỗi đă bị thiêu
đốt qua cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vào lúc
chung thẩm chúng ta cảm nhận và hấp thụ
quyền lực vô biên của t́nh yêu Ngài trên tất cả
sự dữ trong thế gian và trong chúng ta. Nỗi đau
của t́nh yêu trở nên ơn cứu rỗi và niềm vui
của chúng ta. Rơ ràng là chúng ta không thể đo
lường "thời gian" của sự thiêu đốt
biến cải này bằng những đơn vị đo
lường thời gian của trần thế.
"Giờ phút" biến cải trong cuộc gặp
gỡ này vượt quá ước tính thế gian - đó
là thời khắc của con tim, đó là thời gian
của cuộc "vượt qua", để tiến
đến hiệp thông với Thiên Chúa qua Ḿnh Thánh Chúa Kitô.
Sự phán xét của Chúa là niềm hy vọng, v́
đó vừa là Công Lư, và vừa là ân sủng. Nếu
chỉ có ân sủng mà thôi, khiến cho tất cả
mọi việc trên thế gian không c̣n vấn đề
nữa, th́ Chúa sẽ mắc nợ chúng ta một câu
trả lời về Công Lư - một câu hỏi quyết liệt
chúng ta đặt ra cho lịch sử và cho Thiên Chúa. Nếu
chỉ là Công Lư, th́ cuối cùng chỉ có thể đem
lại cho chúng ta sự sợ hăi. Việc Thiên Chúa nhập
thể nơi Đức Kitô đă nối kết Công Lư và
ân sủng với nhau mật thiết đến độ
Công Lư được thiết lập vững chắc: chúng
ta đều phải lo liệu cho sự cứu rỗi
của ḿnh "trong âu lo và run sợ" ( Pl 2, 12 ). Tuy nhiên,
ân sủng cho phép tất cả chúng ta hy vọng, và
để vững tin đi gặp vị Thẩm Phán,
Đấng chúng ta biết đến như là
"trạng sư", hay parakletos ( x. 1 Ga 2, 1 ) của chúng
ta."
Cũng cần góp thêm vào đây cái nh́n thần học
tâm linh của Ḍng Cát Minh Têrêxa về sự “hiệp
nhất tạo biến đổi”, được cha Marie
Eugène tŕnh bày trong sáng dễ hiểu ở phần
đầu tác phẩm “Tôi muốn thấy Thiên Chúa”. Khái
niệm hiệp nhất tạo biến đổi giúp ta
hiểu ra rằng khi được gọi hiệp
nhất với Thiên Chúa Chí Thánh, thụ tạo
được Ngài đổi mới không ngừng cho
đến đời đời. Sau giai đoạn thanh
tẩy luyện lọc hết những vết nhơ,
sự biến đổi tiếp tục làm cho thụ
tạo càng lúc càng giống với Thiên Chúa. Người ta
thường h́nh dung cách giản dị là phải xong
việc này rồi mới sang việc khác, phải qua
khỏi giai đoạn luân lư rồi mới bàn đến
đời sống hiệp nhất, nhưng thực tế
của đời sống ơn thánh cho thấy cả
ơn hiệp nhất và ba nhân đức tin cậy mến
có mặt ngay từ đầu và, nơi con cái Chúa, chính ba
nhân đức ấy giục giă ta dứt khoát với
tội lỗi, làm cho mọi dính bén và mọi bất toàn
bị bật rễ. Ngay ở đời này ba nhân đức
tin, cậy, mến đă cho ta một kinh nghiệm về
việc lửa đốt sạch những cặn bẩn.
Nơi sự hiệp nhất tạo biến đổi, ta
sẽ như những cục than, những thỏi kim
loại được ném vào ḷ lửa hồng và rực
cháy theo lửa…Thiên Chúa vừa bất biến vừa vô cùng
vô tận cho nên thụ tạo khi chiêm ngưỡng và khám
phá Ngài sẽ đi từ bất ngờ này tới bất
ngờ khác cho đến đời đời và
đời đời. Thiên đàng chẳng phải là
một đêm lễ hội ánh sáng nào đó nhưng một
chuỗi đời đời những ngạc nhiên thích
thú và măi măi khám phá sự tươi mới, chẳng c̣n
hở ra một phút giây nào để nhàm chán. Thánh Gioan Thánh
giá diễn tả điều ấy như sự khám phá
của người khai thác những hầm mỏ mênh mông,
của người lạc vào những hang động thiên
nhiên bất tận. C̣n Thánh nữ Têrêxa Avila, trong quyển
Lâu Đài Nội Tâm, th́ xếp đặt thành một
lộ tŕnh tiến dần để, ngay ở đời
này, những người khát khao sẽ tha thiết nài xin
cho ḿnh được biến đổi và hiệp
nhất với Thiên Chúa.
Thánh ca đang đóng một vai tṛ quan trọng trong
việc loan báo Tin mừng. Nhân khi nghiên cứu quyển “Nghi
Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn” để
viết về bài hát “Từ vực sâu”, tôi thấy
quyển sách đầy những ư tưởng giàu h́nh
ảnh, dễ tạo cảm hứng cho những bài thánh ca
thật hay để cầu nguyện bên người quá
cố. Chỉ cần nêu lên tần số xuất hiện
của những ư tưởng từ nhiều đến ít
như sau, cũng đủ gợi hứng cho người
viết ca từ biết phải viết theo hướng
nào:
Sống: (148), trong đó có: hằng sống (23) +
sống mới (9) + sống đời đời (8) +
những trường hợp khác (108)
Chết: (145)
Tin: (98)
Phục sinh: (91), trong đó có: sống lại (62) +
trỗi dậy (9) + Phục Sinh (20)
Phúc: (71)
Cứu: (68), trong đó có: cứu (25) + cứu
độ (29) + giải thoát (14)
Hiệp nhất: (60), trong đó có: nước
trời (6) + tiệc (14) + luyện (8) + hợp nhất
với/hiệp nhất với Chúa (8) + liên kết (7) + chiêm
ngưỡng (7) + đón nhận ( 10)
Hưởng: (45)
Niềm vui: (43), trong đó có:
ân sủng (11) + niềm vui (6) + an ủi (7) + ánh sáng (9)
+ b́nh an (10)
Vinh quang: (42)
Hy vọng: (36), trong đó có: hy vọng (13) + trông
cậy (12) + trông đợi (5) + mong đợi (5) + mong
chờ (1)
Nhân hậu: (31), trong đó có: khoan dung (4) + nhân từ
(3) + thương xót (10) + nhân hậu (14)
Thanh tẩy: (22), trong đó có: phép Rửa (9) + rửa
(5) + thanh tẩy (8)
Đóng đinh: (11)
Khóc: (9)
Vượt thắng: (18), trong đó có: vượt
(7) + thắng (11)
Lửa: (9), trong đó có: luyện vàng trong lửa (5)
+ hồ lửa (3 - trong cùng một bài đọc) + lửa
đời đời (1) + Lửa vinh quang (1 - ánh lửa
chiếu qua bụi lau)
Mục tử: (7), trong đó có: mục tử (3) +
chăn nuôi (4)
H́nh khổ: (5), trong đó có: xiềng xích (2) + cực
h́nh (3)
Phạt: (4)
Dù vực thẳm (Rm 8,39): (1)
Từ vực thẳm (Tv 130,1): (1)
Ngục: (0)
Ngoài ra c̣n có một h́nh thức mai táng mới xuất
hiện trong đời sống người Việt nói
chung và người Công giáo Việt
“Lạy Cha, Cha đă tạo dựng nên lửa và ban
nó cho chúng con. Lửa đă sưởi ấm khi chúng con sinh
ra, đă tạo điều kiện cho cuộc sống
hằng ngày, và khi chúng con đă qua đời, lửa c̣n làm
cho thân xác này chóng về lại t́nh trạng cát bụi. Xin
Cha chúc lành và thánh hoá ngọn lửa chúng con sắp dùng để
hoả táng thân xác người anh em (chị em) chúng con.”
(Lời nguyện)
“Anh chị em thân mến, bởi v́ chúng ta
được lănh nhận một vương quốc
vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết
ơn Thiên Chúa. Với ḷng biết ơn đó, chúng ta hăy
kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp ḷng Ngài.
Quả thật, Thiên Chúa chúng ta là một ngọn lửa
thiêu” (Lời Chúa: Dt 12,28-29; xem thêm những đoạn
khác: 1 Côrintô 15,35-38 và 42-49;
Đanien 3,19b-21 và 24-28; 2 Vua 2,1-2 và 7-11; 1 Côrintô 3,10b-17; Isaia
43,1-7; 2 Phêrô 3,8-13)
Hoặc lời mời gọi, các lời cầu và
lời nguyện:
“Thưa anh chị em, Kinh thánh nói: Thiên Chúa là lửa
thiêu. Chính Thiên Chúa là Cha đă cho Đức Giê-su Ki-tô
đến thanh tẩy chúng ta bằng lửa trong Thánh
Thần, và đă ban Chúa Thánh Thần như lửa
sưởi ấm linh hồn ta. Ngài cũng mời gọi
chúng ta dâng hiến đời sống cho Ngài như
những lễ vật toàn thiêu. Với những xác tín
ấy, trong dịp cử hành lễ hoả thiêu hôm nay, chúng
ta hăy thưa với Ngài những lời cầu nguyện
tha thiết và đầy tin tưởng.
Chúng con xin dâng lên Cha mọi việc lành của (OBACE)
T. và của mỗi người chúng con đă cố
gắng thực hiện trong cuộc sống. Xin Cha thanh
luyện cho trở nên của lễ đẹp ḷng Cha.
Chúng con xin giao phó trong tay Cha mọi tội lỗi
của (OBACE) T. cũng như của mỗi người
chúng con đă vấp phạm. Xin Cha lấy lửa yêu
mến của Cha mà thiêu đốt và thanh tẩy.
Như ngọn lửa vật chất sắp thiêu
đốt thi hài (OBACE) T. , xin cho ngọn lửa mến Chúa
yêu người cũng luôn thiêu đốt tâm hồn chúng
con.
Cũng như thân xác (OBACE) T. sắp thành những
hạt bụi mất hút trong ḷng đời, xin Cha cho
mỗi người chúng con biết quên ḿnh, biến tan
đi trong cuộc sống phục vụ anh em.
Xin cho các thân nhân của (OBACE) T. nhận
được mọi ơn lành của Cha và gặp
được nơi mọi người ḷng yêu mến
thiết tha như ngọn lửa an ủi sưởi
ấm tâm hồn.
Lạy Cha, giờ đây chúng con xin dâng phó linh hồn
(OBACE) T. trong t́nh thương của Cha, và chúng con hoả
táng (OBACE) như một của lễ toàn thiêu dâng lên Cha. Xin
cho lễ hiến dâng này, cùng với t́nh yêu của gia
đ́nh và cộng đoàn chúng con, được kết hiệp
với sự hy sinh của Chúa Giê-su trên thập giá thành
một của lễ đẹp ḷng Cha. Xin cho đời
sống chúng con và mọi lời chúng con cầu nguyện
cũng được như hương khói chân thành
tỏa bay trước Nhan Cha, để cầu cho (OBACE) T.
và mọi người đă qua đời trong ơn
nghĩa Cha được vào hưởng vinh quang Cha muôn
đời.
Hầu như ai trong chúng ta cũng biết bài
“Nối ṿng tay lớn” của Trịnh Công Sơn với
câu ca vừa trầm lắng vừa mạnh mẽ:
“Người chết nối linh thiêng vào đời”.
Cả khi người xưa đă xa cách ta nhiều
chục năm hay nhiều trăm năm, ta vẫn có
thể thấy gần gũi qua công ơn và gương
sáng của họ. Hồi tưởng, ta thấy
dường như họ vẫn hiện diện đâu
đây. Riêng với những người mới xa cách, ta thường
ngậm ngùi thương nhớ và cầu nguyện cho
họ.
Ở đây, niềm tin của anh chị em
lương dân khá mơ hồ và hỗn độn. Một
đàng, họ cầu nguyện cho người chết
sớm siêu thoát. Một đàng lại có sự tin
tưởng cho rằng người chết c̣n ở
với gia đ́nh hết năm đời rồi mới
đi đầu thai. Tại sao lại được
ở với gia đ́nh hết năm đời? Việc
ở với con cháu là hạnh phúc hơn hay việc đi
đầu thai kiếp khác hạnh phúc hơn? Phải
chăng c̣n ở với gia đ́nh là chưa
được siêu thoát? Ta nên cầu nguyện cho
người chết siêu thoát và thôi ở với gia đ́nh
hay là đừng cầu nguyện để họ có
thể ở với gia đ́nh măi? Trong thực tế th́
người ta cầu nguyện sự siêu thoát cho
người chết chỉ trong hai năm đầu,
rồi sau đó không nhắc tới việc cầu cho siêu
thoát. Mà thế nào là siêu thoát? Siêu thoát là đi về đâu?
Ai giữ cái quyền thẩm xét để cho một
người được siêu thoát hay chưa
được siêu thoát? Anh chị em lương dân không
biết dựa vào đâu để trả lời những
câu hỏi ấy và để lư giải những tin
tưởng của ḿnh.
C̣n người Công giáo tin rằng chúng ta từ Thiên
Chúa mà đến và ta được mời gọi hoàn
thành cuộc đời này để về với Thiên
Chúa. Được cứu rỗi là được về
với Thiên Chúa. Ta được cứu rỗi nhờ tin
vào Chúa Kitô chứ không nhờ vào công sức riêng của
bản thân. Khẳng định như thế không có
nghĩa chết xong là được hưởng phúc thiên
đàng ngay, bởi v́ chính Chúa cho biết rằng ta phải
trả xong những món nợ rất nhỏ cuối cùng
rồi mới được vào thiên đàng (x. Mt 5,26). Ta
cần cầu nguyện xin Chúa giải thoát người
đă khuất, tuy nhiên, phải cầu nguyện cho tới
bao lâu?
"Rơ ràng là chúng ta không thể đo lường
"thời gian" của sự thiêu đốt biến
cải này bằng những đơn vị đo
lường thời gian của trần thế.
"Giờ phút" biến cải trong cuộc gặp
gỡ này vượt quá ước tính thế gian - đó
là thời khắc của con tim, đó là thời gian
của cuộc "vượt qua", để tiến
đến hiệp thông với Thiên Chúa qua Ḿnh Thánh Chúa
Ki-tô" (Thông điệp “Được cứu rỗi
nhờ hy vọng”, số 47). Không ai trong chúng ta được
vượt thẩm quyền của Ṭa Thánh để nói
một linh hồn nào đó đă xong hay chưa xong việc
thanh tẩy. Tuy nhiên lời ấy của Đức
Bênêđíctô XVI nhắc ta nhớ rằng vĩnh cửu và
thời gian không cùng một hệ thống và đơn
vị đo đếm. Một đàng, một
người đă về với Chúa cả trăm năm mà
măi đến nay ta mới cầu xin Thiên Chúa giải thoát
họ th́ lời cầu xin của chúng ta cũng không vô ích.
Đàng khác, một người thân vừa nằm xuống,
đang chờ Đấng Thẩm Phán hoàn tất cuộc
thanh tẩy nhưng con cháu ở trần gian đă cảm
thấy ấm ḷng khi nghĩ đến sự che chở
phù hộ của người ấy, th́ cảm nhận này
cũng không sai trái. Một đàng, ngoài thẩm quyền
của Ṭa Thánh khi tuyên phong chân phước hoặc hiển
thánh, không ai nói được một người nào đó
đă được hiệp nhất trọn vẹn
với Chúa hay chưa, nhưng đàng khác đức trông
cậy dạy ta phải tin tưởng mănh liệt vào
lượng thương xót của Thiên Chúa. Người
đă ra đi thuộc về vĩnh cửu, c̣n con cháu đang
ở đời này thuộc về thời gian, ta không
thể lấy suy luận duy lư mà cắt nghĩa.
Cho tới nay các bản văn lễ giỗ
đều mang ư nghĩa cầu xin ơn giải thoát.
Thế nhưng nếu giỗ 30 năm, 50 năm hay 100
năm th́ sao? Nếu ta cứ tiếp tục nhấn
mạnh việc cầu xin ơn giải thoát cho những
người đă chết lâu như thế, liệu có xúc
phạm đến ḷng thương xót bao la của Thiên Chúa
chăng?
Tôi nêu câu hỏi như thế không phải để
phải trả lời bên này hay bên kia, nhưng để
cho thấy ngoài những bản văn lễ giỗ mang ư
nghĩa cầu hồn, cần phải có thêm những
bản văn mang ư nghĩa tạ ơn và hiệp thông.
Thiết nghĩ ngay cả trường hợp giỗ
một năm hay cả giỗ 100 ngày đi nữa, lễ
giỗ không chỉ có một ư nghĩa duy nhất là xin
ơn giải thoát cho người quá cố. Nó c̣n mang ư
nghĩa tưởng nhớ, tiếc thương, hiệp
thông giữa người sống với người
chết và hiệp thông giữa những người c̣n
sống trên đời.
Đan cử một ví dụ. Một trong những lư
do để tạ ơn Thiên Chúa chính là v́ Ngài đă ban
Đạo Hiếu cho người Việt, để
nhờ đó người Việt dễ khám phá ra T́nh Cha bao
la tuyệt với của Thiên Chúa. Ta có thể lấy ư
tưởng ấy làm một lời nguyện nhập
lễ. Lời nguyện tiến lễ sẽ dâng lên Cha trên
trời ḷng hiếu thảo của cộng đoàn và
của cả những người con c̣n ṃ mẫm trong bóng
tối. Lời nguyện hiệp lễ vừa tạ
ơn v́ đă được nuôi dưỡng bằng Thánh
Thể, vừa xin ǵn giữ khỏi mọi mê tín lầm
lạc. Một bản lễ như thế sẽ vừa
tuyên dương Đạo Hiếu vừa dẫn
đưa tâm trí người dự lễ tới con
đường chân thật.
Trong viễn tượng loan Tin mừng cho
lương dân, thiết nghĩ cộng đồng Công giáo
các nước Á Đông cần có thêm những bản
văn lễ giỗ theo các ư nghĩa ấy. Các HĐGM có
thể đề xuất những bản văn cụ
thể và xin Ṭa Thánh phê duyệt. Những bản văn
trong sách lễ tiếng Việt về thánh lễ Tất
niên, Giao thừa, Minh niên, mùng Hai và mùng Ba Tết, cũng
như thánh lễ Trung thu… đă được h́nh thành như
thế.
Rồi tháng Mười Một cũng đă trôi nhanh
và ngày 24-11 Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt
Có một điều dễ bị lăng quên, là thông
điệp quan trọng đặc biệt của
phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật 33 Quanh Năm.
Cả ba năm A, B và C Lời Chúa của ngày này luôn tập
trung vào chủ đề ngày cánh chung. Quên là dễ hiểu,
v́ một phần tư thế kỷ rồi, người
Công giáo Việt
Mỗi năm 365 ngày chỉ có một ngày để
nói về sự cùng tận của lịch sử nhân
loại, nhưng từ 25 năm qua người Công giáo
Việt Nam không c̣n được nghe và suy ngẫm về
điều ấy, đang khi văn minh vật chất ra
rả 24/24 giờ dạy họ bám lấy hạnh phúc
đời này như sẽ chẳng bao giờ phải
chết.
Ngày 24-11 được chọn làm lễ kính
CTTĐVN là để ghi nhớ ngày thành lập Hàng Giáo
Phẩm Việt Nam, nhằm gián tiếp khẳng
định ḷng trung thành của giáo đoàn Việt Nam
với Ṭa Thánh Phêrô, thế nhưng suốt 25 năm qua có
mấy ai đă nhắc đến ư nghĩa này? Ngay cả
Đại Hội Dân Chúa mừng 50 năm Hàng Giáo Phẩm
Việt Nam h́nh như cũng không quan tâm ǵ đến (Xem bản
đề cương “Giáo Hội tại VN”). Đang khi
đó ngày mừng lễ vào 24-11 hết sức bất
tiện cho Dân Chúa tại Việt
Năm nào, việc kính trọng thể Lễ
CTTĐVN cũng lấn mất chỗ của Chúa Nhật
33 Thường Niên. Chúa Nhật này không mang tên một ngày
lễ riêng nhưng có đặc điểm là các bài
đọc luôn nói về mầu nhiệm cánh chung. Đă 25
năm qua, giáo dân Việt
Trước lễ phong thánh, Giáo Hội Việt
Nếu chúng ta không thể xin thay đổi ngày
lễ CTTĐVN trong lịch phụng vụ toàn cầu, ít
ra cần xin một biệt lệ là mừng trọng
thể lễ ấy trên lănh thổ Việt
Tôi đă tự hỏi nên chăng phải viết
đủ 50 bài để đánh dấu cuộc kỷ
niệm 50 năm? Tuy nhiên đó là một kiểu tạo
thành tích không nên có, v́ e rằng chẳng c̣n dành chỗ cho ai
đóng góp ư kiến. Xin được dừng lại
với bài này và mong sẽ nhận được nhiều
bài tương cầu tương ứng, như bài đóng
góp của tác giả Mạc Tường ở chia sẻ
27, để không chỉ đạt tới tổng số
50 mà cả tới 100 và hơn nữa. Cách riêng tôi mong
nhận được phản hồi của những
người em chủng sinh từ mọi ngơ ngách của
Đất nước và Giáo hội.
Này em chủng sinh, tôi viết những ḍng này cho em
trong đêm canh thức giă từ một nhà đào tạo là
cha Phêrô Đặng Xuân Thành, giám học Đại chủng
viện Thánh Giuse Hà Nội. Cha bị đột quỵ sau
khi vừa tan buổi học, hôn mê mấy ngày rồi
được về với Chúa hôm 27-11 và sẽ an táng vào
sáng mai, 02-12-2013. Có thể em đă từng thụ giáo
với cha qua các lớp học, qua các tuần tĩnh tâm
hoặc qua sách vở do cha biên soạn hay dịch thuật.
Vị linh mục 60 tuổi này để lại một
tấm gương sống âm thầm, giản dị, vui
tươi, chuyên cần cầu nguyện, hiếu học,
quảng đại phục vụ, trung thực và quả
cảm sống theo những ǵ ḿnh giảng dạy.
Ngót 32 năm làm linh mục triều, cha chưa
một ngày coi xứ, chưa làm một nhà nguyện nhỏ
nào, nhưng có lẽ những đóng góp của cha cho Giáo
hội Việt Nam đáng quư hơn cả trăm cả
ngàn ngôi nhà thờ, bởi lẽ cha đầu tư toàn
bộ đời linh mục của ḿnh để đào
tạo người cho Giáo hội.
Cũng vậy, có thể Chúa sẽ không dành cho em trách
nhiệm trong một cơ sở đào tạo nhưng
chắc hẳn Chúa chọn em làm linh mục không v́ mục
đích nào khác hơn là rao giảng Tin mừng cho
đồng loại và đưa họ về với Chúa.
Thánh Gioan Thánh giá quả quyết rằng chỉ một linh
hồn người ta thôi đă đáng quư hơn tất
cả vũ trụ này. Em hăy khắc ghi điều ấy
để loại hẳn khỏi tâm trí mọi ư tưởng
vẽ vời khiến em lệch khỏi lư tưởng
cứu rỗi các linh hồn. Hăy ghi khắc để khi
được nên người của Chúa, em sẽ không phí
phạm năng lực tuổi trẻ linh mục của
ḿnh vào việc xây cất cơ sở vật chất. Ma
quỷ luôn t́m cách dùng những điều tốt giả
hiệu để cầm chân, khiến ta hoang phí tâm
huyết vào những điều phù phiếm, không c̣n
lắng nghe và thực hiện ư Chúa nữa. Ngay ngày
đầu mùa Vọng hôm nay, Hội thánh gửi đến
các linh mục và tu sĩ của ḿnh, qua bài đọc I
giờ Kinh Sách, lời cảnh cáo nghiêm khắc của sách
Isaia: “Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích
đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, Ta không
chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày
đại hội, không chịu nổi những
người cứ phạm tội ác rồi lại cứ
lễ lạt linh đ́nh. Ta chán ghét những ngày đầu
tháng, những đại lễ của các ngươi.
Những thứ đó đă trở thành gánh nặng cho Ta,
Ta không chịu nổi nữa” (Is 1,13-14). Hội Thánh
muốn chúng ta đọc lại những lời ấy không
phải để nghĩ về những người
thời Isaia nhưng để nghĩ về chính bản
thân chúng ta.
Trong bài giảng lúc 7 giờ tối nay, trước
quan tài cha Phêrô Đặng Xuân Thành, Đức Cha Micae Hoàng
Đức Oanh chuyển từ lời kêu gọi tỉnh
thức của Mùa Vọng sang lời kêu gọi truyền
giáo. Ngài nhắc lại nhận định của một
viên chức nhà nước: “Người Công giáo quư vị
giỏi xây cất nhà thờ
nhưng không giỏi truyền giáo như người Tin
lành” và nhận định khác của một số anh em
Tin lành: “Người Công giáo không thật sự yêu Chúa Kitô.
Họ không dám chết v́ Chúa và không dám nói về Chúa.
Người Công giáo chỉ lo cho người ta về
cơm áo, thuốc men, c̣n người Tin lành cho
người ta chính Chúa Giêsu”.
Nhũng lời ấy có lẽ chỉ đúng với
người Công giáo Việt
Thời Êlia, Dân Chúa vẫn chai ĺ sau ba năm
rưỡi hạn hán, khiến vị ngôn sứ phải
thốt lên: “Các ngươi c̣n đi nước đôi
đến bao giờ?”. Ngày nay chúng ta hứng chịu
cơn hạn hán đă tṛn nửa thế kỷ mà vẫn
b́nh chân như vại. Ta vẫn c̣n cứ say sưa với
những h́nh thức hào nhoáng bên ngoài. Bao giờ ta mới
can đảm dứt bỏ những Baal của tự hào,
khoa trương, chiếm hữu, cầu an và hưởng
thụ để quay về với Thiên Chúa hằng
sống, Đấng vô cùng giàu sang phú quư mà đă trở
thành nghèo khó v́ ta?
Giáo hội Công giáo Nam Hàn hiện đang theo
đuổi kế hoạch 20-20, nghĩa là quyết tâm hành
động để năm 2020 số người Công giáo
sẽ đạt tới 20% dân số.
Em nghĩ liệu Giáo hội Việt
Và em biết không, để đạt mục tiêu
đă đề ra, Hội thánh tại Hàn Quốc tập
trung đào tạo các ngành giới trong Dân Chúa theo
định hướng ấy, nhưng cách riêng là tập
trung đào tạo các chủng sinh. Mục tiêu các chủng
viện của họ không phải là đào tạo
những chuyên viên coi xứ nhưng là đào tạo
những nhà truyền giáo.
Em hăy tự đào tạo, đúng hơn, hăy
để Chúa Thánh Thần đào tạo em thành nhà
truyền giáo. Ngay từ hôm nay, em hăy tha thiết cầu xin
Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho một tâm hồn truyền giáo. Hăy xin,
Chúa sẽ không chối từ. Hăy ngỏ lời với
Mẹ Maria, Ngài sẽ ủng hộ em. Niềm ước
mơ của em trên ghế chủng viện sẽ
định hướng cả đời linh mục của
em. Cha Thành đă như thế, tôi cũng thế và em
rồi cũng thế.
Cha Phêrô Đặng Xuân Thành lên đường theo
Chúa năm 1965, khi 12 tuổi (12 tuổi ta – tuổi tây là
11). C̣n hết sức bé, so với em ngày nay.
C̣n tôi, năm 1960, khi đă 14 tuổi. Cả bên
nội và bên ngoại tôi đều đă theo Chúa từ
nhiều thế hệ. Ngày tôi c̣n bé, toàn bộ gia tộc
hai bên nội ngoại định cư ở gần trung
tâm thị xă Tuy Ḥa, miền Trung. Chỉ riêng có bác Thân tôi
ở cách khu trung tâm 3 km về phía Bắc. Bác không theo Công
giáo nhưng xuất phát từ cùng một huyện ở quê
tôi và lại mang cùng họ, cho nên cha tôi và các chú tôi nhận
bác làm anh. Gia đ́nh bác là một gạch nối để
tâm hồn trẻ thơ của tôi tiếp cận với
thế giới người lương cách thân
thương và kính trọng. Nhờ đó, ngay từ
những ngày đầu vào Tiểu chủng viện
(lớp Sáu ngày nay), tôi đă mơ làm sao chia sẻ Tin
mừng cho đông đảo người lương
tại xă và huyện quê nhà của tôi, cách riêng là cho
những người cùng ḍng họ. Khi Hội Đồng
Giám Mục miền Nam Việt
Năm tôi học lớp dự bị của Giáo Hoàng
Học Viện th́ Đức Cha Kontum ngày nay đang là
thầy Micae Hoàng Đức Oanh của lớp sắp ra
trường. Một hôm ngài đưa cho tôi mấy trang
giấy đánh máy và bảo:
- Chú đọc và sửa văn giúp anh, sao cho
người lương nghe qua là hiểu ngay.
Tôi c̣n nhớ rơ đó là bản văn Tin mừng theo
Thánh Luca kể chuyện Đức Mẹ đi thăm bà
Êlisabét.
Rồi tôi được mời tham dự buổi
suy tôn Lời Chúa ngoài trời của ngài dành cho bà con cả
lương lẫn giáo tại khóm Đông Tĩnh, Hà
Đông, Đà Lạt. Mục tiêu cử hành buổi ấy
là để giúp người dân suy tư, đi từ
việc tôn kính Ông Bà Tổ Tiên đến việc kính
thờ Thiên Chúa. Niềm ước mơ của cậu
tiểu chủng sinh kia giờ đây được Giáo
hội đẩy vào một định hướng
thật rơ...
Về sau tôi đọc thấy trong quyển “Bảy
thói quen giúp bạn trẻ thành đạt” lời khuyên
của tác giả của Sean Covey: “Hăy định rơ mục
tiêu trong đầu trước khi bắt tay vào việc”.
Chính gia đ́nh, lớp giáo lư, đoàn thể thiếu nhi
Công giáo rồi Tiểu chủng viện đă
được Chúa Thánh Thần dùng để giúp tôi
khẳng định ngay từ đầu mục tiêu
đơn giản của ơn gọi là tôn vinh Danh Thiên
Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Với ư thức
ấy, tôi đă háo hức suốt cuộc hành tŕnh hơn
50 năm của đời tận hiến và ngót 50 năm
được đồng hành với niềm thao thức
của Hội thánh qua việc áp dụng huấn thị
“Plane compertum est”.
Hôm nay tôi cũng ước mong được nh́n
thấy em, người chủng sinh yêu dấu của Chúa,
khắc sâu chọn lựa của ḿnh vào tâm trí: chọn
lựa Chúa Kitô cùng với nỗi khắc khoải cứu
rỗi các linh hồn dù bằng con đường hẹp
của Ngài, để rồi 50 năm nữa khi tổng
kết hành tŕnh ơn gọi, em nhận ra rằng một
khi ta đă miệt mài t́m kiếm Chúa, Chúa sẽ làm cho
cả những đóng góp vô nghĩa nhất của ta nở
hoa.
Em hăy định rơ trong tâm trí điều Chúa đang
mong chờ em và hăy để chính Chúa trang bị em cho công
cuộc của Ngài.
Viết
xong tại nhà xứ Nam Hải, giáo phận Sài G̣n,
rạng sáng ngày 02-12-2013.
Linh mục Trăng
Thập Tự Vơ Tá Khánh
MỤC LỤC
MỘT
VÀI KINH NGHIỆM LOAN TIN MỪNG QUA CON ĐƯỜNG
ĐẠO HIẾU
01
VẤN ĐỀ THỜ CÚNG ÔNG BÀ TRONG LỊCH SỬ GIÁO
HỘI VIỆT NAM
02
MỘT SỐ THỰC HÀNH GÂY ÁI NGẠI
03
QUAN ĐIỂM MỚI CỦA T̉A THÁNH
Thông
cáo của Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam về việc tôn kính tổ tiên
QUYẾT
NGHỊ VỀ LỄ NGHI TÔN
KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN
01
TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA
02
TRÁNH BỊ NGỘ NHẬN MỘT LẦN NỮA (2)
04
QUYỂN GIA LỄ CÔNG GIÁO HAY KINH NGUYỆN GIA Đ̀NH
05
50 NĂM LINH TÍNH ĐỨC TIN – NGHI THỨC CÚNG GIỖ
06
TÂM TƯ NGƯỜI NĂM MƯƠI NĂM THỜ CÚNG
TỔ TIÊN
07
NGỎ LỜI VỚI BẠN ĐỌC NGOÀI KITÔ GIÁO
02
GIA PHẢ, CH̀A KHÓA MỞ L̉NG ANH EM
04
THIÊN CHÚA CHA MẠC KHẢI QUA KINH THÁNH
05
ĐẠO HIẾU TRONG LỜI NGUYỆN PHỤNG VỤ
07
DẠY GIÁO LƯ THEO KINH LẠY CHA
08
ĐÀO SÂU LINH ĐẠO LÀM CON THẢO
01
PHONG TRÀO LIÊN KẾT D̉NG HỌ
03
NHÂN H̉A – ĐỊA LỢI - THIÊN THỜI
04
MƯỜI BÀI TÂM CA MÙA BÁO HIẾU
05
ĂN GIỖ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI ĐĂ
KHUẤT
07
KHÓ KHĂN V̀ GIÁN ĐOẠN PHẢ LIỆU - NHỮNG
ĐƯỜNG DẪN CO DĂN
08
MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ KINH NGHIỆM SINH
HOẠT LIÊN KẾT D̉NG HỌ
PHỤ
LỤC CÁCH KHỞI THẢO GIA PHẢ
10
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO NGƯỜI VIỆT XẾP THEO
D̉NG HỌ
11
ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG CÁC THÁNH
02
CƠM CHAY TRÊN BÀN THỊT CHÓ..
04 KHÔNG PHẢI VỰC SÂU NHƯNG LÀ
KHÁT VỌNG
05
VIỄN ẢNH LẠC QUAN CỦA SPE SALVI
06
CẦN NHỮNG BÀI CA MỚI CHO NGƯỜI ĐĂ KHUẤT
07 CẦN CÓ THÊM NHỮNG BẢN
VĂN LỄ GIỖ MANG TÍNH TẠ ƠN
08
CẦN XÉT LẠI NGÀY THÁNG MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM
THƯ
GỬI NGƯỜI EM CHỦNG SINH: NHỮNG GÀU NƯỚC
VÀ TRẬN MƯA TẦM TĂ
TỦ SÁCH NƯỚC MẶN
NHỮNG SÁCH ĐĂ IN