LINH ĐẠO HÔN NHÂN HIỆN ĐẠI

1 2 3 4 5

marriage

 

Giới Thiệu

 

Evelyn Eaton Whitehead là một tâm lư gia ngành phát triển, đậu tiến sĩ tại Đại Học Chicago. Bà viết và dạy về các vấn đề: phát triển nơi người lớn, về già, và phân tích cộng đoàn. James D. Whitehead là thần học gia mục vụ và sử gia tôn giáo. Ông đậu tiến sĩ tại Đại Học Harvard với chủ đề tôn giáo Trung Hoa. Các chú tâm chuyên nghiệp của ông bao gồm các vấn đề linh đạo hiện đại và phương pháp thần học trong thừa tác vụ.

Hai ông bà Whitehead là tác giả cuốn Christian Life Patterns (các Mẫu Sống Kitô Giáo), do nhà Doubleday xuất bản năm 1979 và được chọn làm tuyển tập của Catholic Book Club… Năm 1978, hai ông bà thành lập công ty Whitehead Associates trong đó họ giữ vai tṛ chuyên viên về các vấn đề giáo dục và thừa tác vụ. Hai ông bà đồng thời c̣n là thành viên của Viện Nghiên Cứu Mục Vụ (Institute of Pastoral Studies) tại Đại Học Loyola ở Chicago.

Sau đây là một số bài hai ông bà viết về Linh Đạo Hôn Nhân Kitô Giáo, trích từ cuốn Marrying Well (Kết Hôn Tốt) do nhà Doubleday xuất bản năm 1983. Theo ông bà Whitehead, linh đạo giúp ta tiếp xúc với quyền năng và sự hiện diện của Thiên Chúa và mời gọi ta đáp ứng một cách có nhân đức. Linh đạo hôn nhân, cả Kitô giáo lẫn hiện đại, bao gồm các nhân đức đặt cơ sở trên cả truyền thống tôn giáo của ta lẫn các tài nguyên tâm lư mà cuộc sống hiện đại vốn đ̣i hỏi. Tự thân mật với ḿnh chẳng hạn là tự chấp nhận ḿnh cách hợp nhân đức, điều giúp tôi trung thành trong cuộc hôn nhân của ḿnh: có yêu cái con người đặc thù là tôi này, tôi mới có khả năng lớn hơn để yêu thương, một cách nhẫn nại, con người đặc thù mà tôi đă kết hôn. Nhân đức thủy chung chẳng hạn, rất cần thiết đối với cuộc hôn nhân kéo dài suốt đời, đă phối hợp cả cam kết với đổi thay. V́ khi hôn nhân ta lớn mạnh, mỗi chúng ta phải tiếp tục trung thành với cả các cam kết liên tục của ḿnh lẫn các lời mời gọi mới vừa khám phá ra qua cuộc sống chung của ḿnh. Các giá trị Kitô giáo của ta phải bén rễ trong lối sống hôn nhân của ta. Lối sống này, vốn do các quyết định thực tiễn của ta liên quan đến công ăn việc làm, tiền bạc cũng như cầu nguyện và vui chơi khuôn định, là một phần trong thừa tác vụ gia đ́nh của ta, của việc ta đóng góp cho một thế giới công lư và yêu thương hơn. Nền linh đạo của hôn nhân Kitô giáo cũng được lên khuôn nhờ đáp ứng của ta đối với những thời điểm hết sức quan trọng trong đời ta, các khủng hoảng trong đó động cơ học Kitô giáo của mất của thu, của chết của sống được cảm nghiệm. Kỷ luật hay khổ hạnh trong việc gia đ́nh ta sử dụng th́ giờ cũng ảnh hưởng tới các cố gắng của ta nhằm sống một cách đầy ơn phúc hơn lịch sử đặc biệt trong cuộc hành tŕnh chung trong Chúa.

 

1. Căn Bản Của Chung Thủy:

 

Thân Mật Với Chính Ḿnh

  Thân mật và chung thủy là các nhân đức chính của hôn nhân. Có chung thủy, thân mật trong hôn nhân mới bền vững. Ấy thế nhưng, chung thủy không hẳn chỉ là bền vững. Nó bao hàm một diễn tŕnh chung thủy, v́ cả người bạn đời lẫn Thiên Chúa của chúng ta đều luôn tự tỏ ḿnh ra với chúng ta một cách liên tục và đầy bất ngờ.

Ḷng chung thủy trong hôn nhân, tức sự sống c̣n và tăng trưởng trong t́nh thân mật giữa chúng ta, thực ra, được đặt cơ sở trên một thứ thân mật khác. Đó là ư thức của tôi về chính tôi và ḷng yêu tôi dành cho chính con người ḿnh. Trong hôn nhân, chúng ta liều hiến ḿnh cho một cam kết suốt đời. Nhưng cái ḿnh kia là ai mà tôi dám trao phó cho một người khác? Tôi quen thuộc ra sao với những tham vọng và sợ sệt nội tâm của chính tôi, với cái thân xác và tính dục của chính ḿnh, với những mộng mơ và nghi hoặc của chính cái bản ngă này? Tất cả những điều đó cùng với tôi bước vào cuộc hôn nhân và sẽ ảnh hưởng đến khả năng chung thủy của tôi.

Thân mật với chính ḿnh, hay cái nhân đức giúp tôi biết yêu thương, chăm sóc và chấp nhận bản thân ḿnh, là sức mạnh người trưởng thành nào cũng cần có. Và đối với nhiều người trong chúng ta, hôn nhân và gia đ́nh là hai lănh vực trong đó chúng ta chạm trán với thách đố ấy cách cụ thể hơn cả. Thân mật với chính ḿnh cùng một lúc là nhân đức hôn nhân đ̣i phải có nhưng cũng là một nhân đức được thử thách và phát triển cách đặc biệt trong hôn nhân.

 

Thân Mật Với Cái Tôi Số Nhiều

 

Suy tư về nhân đức tự thân mật với chính ḿnh bắt đầu với việc hiểu ra rằng mỗi người chúng ta đều là số nhiều. Mỗi người trong chúng ta đều là một hỗn hợp của nhiều hy vọng và sợ sệt khác nhau, có khi ḱnh chống nhau nữa. Ta tổng hợp trong chính ta khá nhiều tham vọng và lư tưởng; ta muốn trở nên và thực hiện được nhiều điều. Song song với các tham vọng và mộng mơ ấy, là các dự cảm và nghi hoặc: một số chỉ thoáng qua hay chỉ xẩy ra trong những hoàn cảnh nhất định nào đó; nhưng một số khác th́ dai dẳng kéo dài. Chúng cùng đồng hành với ta trong suốt những năm tháng c̣n lại của cuộc đời.

Tính đa nguyên ấy đôi lúc xem ra như một điều gây bối rối, cần được che đậy cho bằng được. Ta vốn được dạy rằng chỉ “những con người khùng điên” mới có các yếu tố trái ngược nhau, lưỡng diện, chưa giải quyết ở bên trong mà thôi. “Người b́nh thường”, nghĩa là hầu hết những người ta thấy chung quanh, xem ra ổn định và quân b́nh chứ có đâu như vậy. Cuộc sống nội tâm của tôi, với những bất ngờ đột ngột, những lo âu xao xuyến và chưa hoàn tất kia, quả là đáng bối rối. Đành phải chịu vậy thôi, chứ khó ḷng có thể khám phá hay chia sẻ ngay cả với chính tôi nữa. Tự thân mật với chính ḿnh chính là nhân đức nhờ đó tôi lớn lên trong việc hiểu biết và chấp nhận cái hữu thể nhân bản đặc thù mà tôi đang trở nên kia. Nó đem lại thêm sức mạnh để tôi nhận ra bản sắc ḿnh, hay có được cảm thức trong sáng và tự tin về con người thực của ḿnh, có được ḷng khoan dung và âu yếm đối với con người đặc thù là chính ḿnh kia. Nó là sức mạnh của ḷng yêu ḿnh đă trở nên chín mùi, vốn là cơ sở để tôi yêu thương và chăm sóc người khác.

Việc Thiên Chúa tự mặc khải qua thiên nhiên và người khác, cả người ta thương lẫn kẻ ta ghét, cũng tương tự như thế. Sự hiện diện và tự mặc khải của Thiên Chúa trong cuộc sống đặc thù của ta sẽ giúp ta vượt ra ngoài tính tự quá yêu ḿnh (narcissism) và mời gọi ta hướng tới nội quan tôn giáo.

Càng ít giấu kín cái tôi số nhiều ấy, tôi càng tỉnh táo đối với trách vụ chủ yếu là phải phát triển về phương diện tâm lư và chín mùi về phương diện Kitô giáo. Nói cách khác là trách vụ chăm sóc tới việc tự tỏ bầy cái tôi đang trở nên kia. Những cái tôi phức hợp đầy phong phú của ta, vốn do Chúa dựng nên và cư ngụ kia, cần có thời gian và quan sát cẩn trọng mới tự tỏ bầy ra được. Việc Thiên Chúa tự mặc khải qua thiên nhiên và người khác, cả người ta thương lẫn kẻ ta ghét, cũng tương tự như thế. Sự hiện diện và tự mặc khải của Thiên Chúa trong cuộc sống đặc thù của ta sẽ giúp ta vượt ra ngoài tính tự quá yêu ḿnh (narcissism) và mời gọi ta hướng tới nội quan tôn giáo.

Có hai thách đố bổ túc cho nhau trong việc phát triển tâm lư và tôn giáo nơi người trưởng thành. Sự chín mùi sẽ phát sinh từ thế quân b́nh giữa hai phát triển trên. Phát triển được chú ư nhiều hơn trong truyền thống Kitô giáo là thách đố thay đổi, cải biến và hồi tâm quay đầu trở lại. Ta biết ta là kẻ có tội, ích kỷ, ngờ vực và ngay cả phá phách nữa. Trong cuộc sống Kitô hữu của ḿnh, ta được thách thức phải thay đổi, phải đáp trả cố gắng của Thiên Chúa muốn biến đổi và chữa lành cái tôi bị thương tổn kia. Đó là lời mời gọi metanoia, quay trở về và thay đổi cơi ḷng. Lời mời gọi ấy đ̣i cố gắng và một thứ bất khoan dung nhiệm nhặt đối với con người hiện nay của ta. Nhưng cần phải ghi nhận tính thích ứng của thứ bất khoan dung này. Người trẻ tuổi thường bất khoan dung cách quá đáng với người khác và với cả ḿnh nữa. Tương tự như thế, trong các giai đoạn đầu của xác tín mới, người mới quay đầu trở lại thường rất không khoan dung với những ai không chia sẻ cái nh́n trong sáng của ḿnh.

Thế nhưng, khi đă trưởng thành hơn, th́ thứ bất khoan dung kia sẽ trở nên ít “thần thánh” hơn. Và lúc ấy, ta sẽ thoáng nhận ra khía cạnh khác của metanoia: tức thách đố phải quay đầu trở lại với t́nh yêu thương và chấp nhận con người của ḿnh cách sâu đậm hơn. Càng tiếp tục thay đổi, nghĩa là càng trở nên nhân đức và ít ích kỷ hơn, ta càng được thách thức tiến tới thứ t́nh yêu biết khoan dung hơn đối với cái hỗn hợp gồm đủ điểm mạnh và điểm yếu đặc thù ta vốn thấy nơi ḿnh. Thách đố này trong yếu tính chính là thiệp mời bước vào t́nh thân mật sâu sắc hơn với chính bản ngă ta.

Việc chuyển dịch bước trở lại t́nh thân mật với chính ḿnh ấy không phải là trở về định cư trong ḷng tự hào tự măn. Trái lại nó là lời mời gọi tạo nên một ḥa điệu, một tổng hợp sâu sắc hơn các điều vốn là con người của chính tôi. Nói cách khác, nó là lời mời gọi phải vượt quá bên kia việc từ bỏ cái tôi đầy hữu dụng ở thuở ban đầu của cuộc đời, lúc tôi cần phải quay mặt khỏi những phần hàm hồ, gây xấu hổ hay làm ḿnh bối rối của chính ḿnh. Càng chín mùi, xem ra ta càng được mời gọi phải làm bạn với chính bản thân ḿnh. Đối với Kitô hữu, việc ấy c̣n là một yêu cầu tôn giáo là đàng khác. Ta được mời gọi bước vào một b́nh diện mới, phải dễ chịu với chính cái tôi đặc thù và đặc biệt của chính ta và phải xuồng xă một cách đầy đánh giá với những ǵ Thiên Chúa đang thực hiện với chúng ta và bất kể chúng ta.

 

Làm Bạn Với Chính Cái Tôi Số Nhiều Ngay Lúc Này

  Mỗi người chúng ta không những là số nhiều, cùng với thời gian, qua lịch sử những điều chúng ta đă thực hiện và trở nên; mà chúng ta c̣n là số nhiều ngay lúc này. Ngay hôm nay đây, tôi thấy tôi như một bội số, hứng khởi v́ nhiều thành tố của cuộc đời và cùng một lúc lo âu v́ nhiều thành tố khác. Đôi khi cùng một lúc, tôi thấy ḿnh vừa can đảm vừa nhát cáy, vừa đầy hy vọng vừa nản ḷng hết cỡ. Tôi thấy ḿnh có nhiều cố gắng muốn phục vụ v́ nhiều nguyên động lực khác nhau, nhưng kèm theo đó lại là một loạt các cảm nhận thật dị biệt khác. Và càng chín mùi tôi càng nhận ra rằng cái đa dạng trong nguyên động lực và cảm nhận trên không nhất thiết biến tôi thành người xấu, mà chỉ làm tôi trở thành con người thực của ḿnh. Cái tổng hợp đặc thù gồm nhiều khả năng và hạn chế, óc sáng tạo và tính ương ngạnh đó chính là con người thực của tôi. Thách đố phải tự thân mật với chính tôi chính là phải hiểu tốt hơn cái tôi số nhiều này và phải yêu thương nó nhiều hơn.

Rất nhiều dữ liệu cho thấy ta là ai và ta đang thế nào. Đôi lúc, các dữ liệu này có tính đột biến, như bị viêm loét hay nhồi máu cơ tim. Kiệt sức và trầm cảm cũng có thể là dấu chỉ một mất thăng bằng, thiếu ḥa điệu hay tổng hợp nào đó trong đời. Sự chín mùi tâm lư và tôn giáo bao hàm khả năng biết chú ư tới các dữ liệu đột biến và thường ngày của ta. Một thứ kỷ luật khác, do định mức văn hóa nào đó tạo nên, một thứ kỷ luật đ̣i người ta phải đạt thành tích và tự túc, nhiều khi thúc đẩy ta cứ nhắm mắt tiến bước, đến nỗi bỏ qua các dữ liệu ấy. Thứ kỷ luật như thế quả là một h́nh thức tự từ bỏ ḿnh không phù hợp chút nào với Kitô giáo. Hoa trái của nó thường là một “người thành đạt” kiệt lực và đầy giận dữ hơn là một người trưởng thành độ lượng và biết quan tâm.

Tự thân mật với chính ḿnh bắt đầu bằng việc chú ư tới các dữ liệu có từ bên trong. Càng biết lắng nghe, ta càng học hỏi nhiều hơn về cả các giới hạn lẫn các mối hy vọng đẹp nhất của ta. Tôi có thể bắt đầu để qua một bên các hoài mong người khác có về tôi cũng như các mục tiêu đầy lư tưởng nhưng quá trừu tượng của chính ḿnh, và thay thế các điều đó bằng một ư thức rơ ràng và cụ thể hơn về những ǵ cuộc sống riêng tôi có thể đưa lại. Tôi bước vào nhịp điệu của chính tuổi trưởng thành nơi ḿnh đồng thời bước vào vùng dễ chịu và nhẫn nại với chính hành tŕnh đời ḿnh.

Tư lự

T́nh thân mật với chính tôi đó có thể đem lại một cảm thức rơ ràng hơn về các nguyên động lực của ḿnh. Ư thức rơ hơn về lư do tại sao tôi lại làm việc quá sức, hay tại sao ḿnh giận dữ và trầm cảm. Tôi có cơ hội tốt hơn để chữa lành các phần đó trong con người ḿnh, bất kể việc chữa lành này bao hàm việc vượt qua hay trở nên dễ chịu với chúng.

Mục tiêu của trách vụ làm bạn với cái tôi số nhiều này là “tự chiếm hữu chính ḿnh” (self-possession). Mỗi người chúng ta có thể đă biết một số ít người biết dễ chịu sâu sắc đối với con người thực của họ. Không cam chịu mà cũng không quá đạt thành tích, họ đă làm tốt những ǵ họ có thể làm được, âm thầm ư thức được cả các giới hạn lẫn các nhu cầu của riêng ḿnh. Những người như thế hài ḷng với chính ḿnh. Họ tự t́m được nhịp điệu của riêng ḿnh; theo một nghĩa sâu sắc nhất, họ quả đă bước vào ơn gọi của chính họ. Và có lẽ tốt cơn cả, họ thấy thích chính bản thân ḿnh.

Tôi có thể đă cảm nhận được phần nào thứ chuyển động này trong tôi. Thí dụ, tôi thấy ḿnh chỉ có thể làm công việc đến thế mà thôi; ước ǵ tôi mạnh hơn để có thể làm lâu giờ hơn như một số người chung quanh tôi. Nhưng tôi không thể mạnh hơn được, và tôi chấp nhận điều ấy. Tôi nhận rằng vóc dáng tôi chỉ thế này thôi, chẳng cao hơn, chẳng lôi cuốn hay trẻ trung hơn, cũng không có vẻ oai vệ hơn chút nào. Tôi chỉ thế này thôi, và điều đó tôi chấp nhận được. Thực ra c̣n hơn cả chấp nhận nữa; v́ đó là con người thực của tôi và tôi thích con người thực ấy. Đồng thời cũng có những nỗi sợ và nghi hoặc trở tới trở lui xem ra cũng là chính tôi nữa. Có lúc tôi đă giả thiết rằng các cố gắng và năm tháng sẽ giải thóat tôi khỏi chúng. Nhưng lúc này đây, xem ra chúng c̣n ở với tôi “lâu năm nữa”. Bởi thế, tôi sẽ lợi dụng chúng hết ḿnh. Thậm chí c̣n ôm hôn những ma vương nội tâm này, những cái yếu đuối một thời tôi coi là không thể khoan thứ được. Thánh Phaolô có thể đă nghĩ đến điều này khi nhắc đến những cái gai đâm vào xương thịt ḿnh. Một số các yếu đuối và kỳ dị này ta chẳng làm sao rũ bỏ được; chúng là chính chúng ta. Ngay đến Thiên Chúa xem ra cũng bằng ḷng không muốn gỡ bỏ chúng đi. Tự thân mật với ḿnh mời gọi ta khoan dung hơn với cả những khía cạnh ấy trong con người thực của ḿnh.

Sau cùng, tự thân mật với ḿnh giúp ta sống trong hiện tại. Tự chấp nhận ḿnh là thích chính ḿnh ngay lúc này, ở cái tuổi này của cuộc đời. Khi đă lớn mạnh trong nhân đức này, tôi sẽ thoát khỏi cái ám ảnh văn hóa với tuổi trẻ, một ám ảnh khiến tôi đă có lúc ân hận v́ cái tuổi đời hiện nay lúc ḿnh già đi hơn.Tôi có khả năng hơn trong việc coi mỗi năm trong cuộc sống ḿnh như hiện tại. Tôi không cần phải chối hay giấu tuổi ḿnh, bởi tôi thích con người thực lúc này của tôi.

Cái nh́n tôn giáo đầy thông sáng từng hỗ trợ cho lời mời gọi tự chấp nhận và yêu thương ḿnh là: ta không thể chờ đến lúc ḿnh hoàn thiện mới yêu thương bản thân ta. Huyền thoại toàn thiện đă làm thui chột bao nhiêu cố gắng của người Kitô hữu trong việc lớn lên về phương diện tôn giáo. Khi mưu cầu toàn thiện, ta từng tự cho phép ta ghét ḿnh như những kẻ tội lỗi, bất toàn, đầy lầm lỗi. Khi ngạc nhiên thấy ḿnh được người khác yêu thương, rất có thể ta cho rằng họ thương ta chỉ v́ họ không biết con người thực của ta. V́ thế mà ta ráng làm sao che giấu các khuyết điểm của ḿnh, giả bộ ḿnh là một con người khác mong duy tŕ cho bằng được cái tấm t́nh yêu mà ḿnh không xứng đáng kia. Nhưng nếu may mắn, ta sẽ thấy rằng bạn bè ta thực sự yêu chính chúng ta, tất cả những ǵ trong con người thực của ta, cả khuyết điểm lẫn mọi điều khác. Có thể lấy bài học này để nhắc ta nhớ rằng ta có thế nào Thiên Chúa yêu thương ta thế ấy. Dưới con mắt Chúa, chúng ta đáng yêu ngay lúc này; không phải việc lành ta làm, cũng chẳng phải các thành tích của ta cũng như ḷng thống hối nơi ta làm ta trở thành đáng yêu một cách ma thuật. Nói theo Chesterton, chính trong lúc được yêu, chúng ta đă trở nên đáng yêu. Điều ấy đúng đối với việc tự thân mật với ḿnh: tôi được kêu mời yêu thương chính tôi, không phải dưới ánh sáng các cải tiến trong tương lai, nhưng là chính lúc này trong con người thực của ḿnh. Càng cảm thấy dễ chịu với cả tính đặc thù lẫn tính đáng yêu của ḿnh, tôi càng có khả năng yêu thương người khác nhiều hơn.

 

Qua Thời Gian, Ḥa Giải Với Chính Cái Tôi Số Nhiều

  Cùng với cuộc hành tŕnh trên đường đời, chúng ta thu lượm được một lịch sử: ta ở nhiều nơi, sống nhiều vai tṛ. Tính đa nguyên của cái tôi lịch sử này ít khi là một đổi thay căn để hay toàn diện. Tôi vẫn nhận ra một liên tục tính nào đó trong tôi từ thuở ấu thơ qua tuổi thiếu niên đến tuổi trưởng thành. Các hoài niệm và hy vọng dai dẳng nối kết cuộc hành tŕnh này và nhận diện nó như là của tôi, trong mọi giai đoạn. Ta rất có thể gặp một số người đại diện cho hai thái cực đổi thay và ổn định bản thân. Quả thế, có những người hoàn toàn cắt đứt khỏi gốc rễ, cố gắng đoạn kết với quá khứ, một quá khứ bị họ ghét bỏ hay bị họ coi là không chịu đựng được nữa; có khi họ c̣n thay đổi cả tên mong t́m ra một căn tính khác hẳn. Ở thái cực bên kia, ta lại thấy có những người từ khước thay đổi, họ khư khư cứng ngắc bám lấy điều xưa nay họ vẫn là. Đa số chúng ta sống giữa hai thái cực ấy. Khi tiếp tục thay đổi để đáp ứng các đ̣i hỏi và lời mời của cuộc sống, ta thấy ta tự bộc lộ ḿnh, khám phá ra các sở thích không ngờ và các khả năng chưa bao giờ được dự ứng. Và chúng ta nhận ra nhiều ngôn từ đă không nói chính xác nghĩa thật. Những từ đơn giản như “cha mẹ” hay “vợ” hay “công nhân”, từng được dùng để miêu tả chính tôi suốt 15 năm hay 30 năm qua. Ấy thế nhưng tôi thấy ḿnh thủ diễn rất nhiều vai tṛ dưới những phạm trù đơn giản ấy; tôi đă hiểu tôi một cách khác nhau tại những thời điểm khác nhau trong những năm tháng ấy.

Như thế, cái tôi hiện nay của tôi thực ra là một chồng chất những điều tôi từng là và từng làm, mọi thành công và thất bại, mọi lời hứa được tuân giữ và nhiều cam kết bị bỏ rơi.Cái lịch sử bản thân này hiện diện trong ta dưới nhiều trạng thái ư thức và hoà điệu khác nhau. Tuy nhiên, đến nửa đời người, chắc chắn cái lịch sử này sẽ đ̣i ta phải chú ư. V́ vào khoảng thời điểm này, nhiều người trưởng thành thấy ḿnh được mời gọi xem sét lại lịch sử ấy và tích nhập tốt hơn một số khía cạnh của nó vào chính cuộc sống ḿnh.

Lời mời gọi xem sét lại đời ḿnh trên đây có thể xuất hiện trong một bất thần giáp mặt với cái phần mềm mại trong quá khứ của tôi. Bỗng nhiên tôi được gợi nhớ lại cung cách cha mẹ, thầy cô, người trên, hay cả vợ hoặc chồng tôi nữa, cư xử với tôi. Tôi lấy làm lạ v́ sự giận dữ do hoài niệm đó đem lại. Hết giận đến trách móc: các nhân vật trên làm tôi thương tổn, và phải chịu trách nhiệm đối với các khó khăn của tôi hiện nay. Trong cơn giận dữ này, một phần quan trọng trong quá khứ, trong con người của tôi, xưa nay chưa được tha thứ, đă được phát hiện cho tôi. Tôi thấy một mảnh đời ḿnh, cái mảnh xấu xí và gây đau, cái mảnh chưa được tha thứ mà tôi vẫn giấu kỹ xưa nay, nhưng giờ đây nó đ̣i được chú ư. Hoặc cái phần gây đau, chưa được tha thứ trong quá khứ của tôi kia là điều chính tôi gây ra. Một lầm lỗi hay chọn lựa lầm nay xuất hiện trở lại; mặc cảm tội lỗi và ân hận lại tuôn trào trong tôi. Sự phát hiện này vẫn là một: đây là một phần của chính tôi mà tôi từng ghét bỏ hay chối từ hoặc cảm thấy xấu hổ. Giờ đây, tôi được mời gọi phải ḥa giải với nó.

Xem ra có ba giải pháp khi các dữ liệu gây bối rối kia xuất hiện. Tôi có thể bù đầu vào làm việc để t́m cách chôn giấu cái phiền toái từ quá khứ ấy đi. Ở đây, hy vọng là tôi có thể làm ngơ được nó. Tôi coi nó như một điều gây chia trí; tôi ức chế nó một lần nữa và hy vọng nó sẽ biến mất. Giải pháp thứ hai là nắm lấy các cảm xúc trách móc hay mặc cảm tội lỗi, và với một hăng say mới, lao ḿnh vào diễn tŕnh trừng phạt: trừng phạt cha mẹ, người phối ngẫu, hay chính bản thân ḿnh. Giải pháp này là để trả đũa cái phiền năo mà quên không nhận ra cái cơ may của nó. Giải pháp thứ ba là giáp mặt với việc trách móc hay mặc cảm tội lỗi coi nó như giai đoạn quan trọng đầu hết của lời mời nội tâm. Khi cảm nghiệm được các cảm xúc mạnh của quá khứ, rất có thể đến lúc sau chót, tôi cũng sẽ cảm nhận được lời mời gọi tha thứ. Cái biến cố mạnh mẽ mà tiêu cực này đă xẩy ra và thực sự đă ảnh hưởng tới đời sống của tôi. Nhưng như tôi có thể sẽ thấy, tôi không c̣n cần phải trách móc, đổ lỗi cho cha mẹ tôi hay một thẩm quyền nào nữa; tôi không cần phải mang mặc cảm tội lỗi nào nữa về các hành vi của chính ḿnh. Tôi có thể tha thứ cho cái phần gây đau và bị thương của quá khứ tôi, vốn là một phần của chính tôi. Có lẽ tha thứ là một hạn từ có vẻ hạ ḿnh quá chăng; v́ thực ra tôi có thể ôm lấy cái phần quá khứ của tôi ấy mà chào đón nó vào cuộc sống hiện tại của ḿnh. Cái ôm này không tự nó biến cải quá khứ như tṛ ảo thuật; v́ nó đâu có làm cho cả cơn đau lẫn vết thẹo biến đi. Nhưng cái ôm và ḥa giải với quá khứ này giống như một thứ hành động trừ qủy: cái phần bản ngă tôi này, với những giận dữ và mặc cảm tội lỗi chứa chấp trong nó, đă mất đi quyền lực trên tôi. Với thời gian, khi đă tha thứ cho các biến cố ấy của quá khứ, tôi có thể hủy tiêu quyền lực phá hoại của nó đối với đời tôi. Tôi không cần phải chối bỏ hay tránh né cái phần của chính tôi đó nữa. Nó không c̣n khả năng làm tôi thương tổn như nó từng làm trước đây nữa, v́ tôi đă ôm lấy nó, đă chào đón nó vào nhà, và khi làm như vậy, đă lột hết quyền lực của nó đi.

Làm sao những điều kỳ diệu như thế lại có thể xẩy ra? Kitô hữu từng học được điều trên từ chính cuộc đời Chúa Giêsu Kitô. Khả thể tha thứ là một khả thể lạ lùng nhất trong các mạc khải của Kitô giáo. Khi trái tim ta cứng lại (chống lại chính ta) và tha thứ xem ra không thể có được hay không thể chịu được, th́ Phúc Âm dạy ta khác thế. Mạc khải Kitô giáo dạy ta rằng ta có thể chờ mong điều phi thường ấy từ ngay chính nơi ta. Nó cũng công bố hiệu quả của hành vi tha thứ mạnh mẽ này, rằng quá khứ có thể thay đổi được. Ư niệm số mệnh cho rằng điều đă làm th́ đă làm rồi. Nhưng tha thứ nói ngược hẳn lại: nó cho ta năng lực để thay đổi quá khứ và sức mạnh gây thất bại của nó. Ta có thể tha thứ điều cha mẹ, Giáo Hội, người phối ngẫu và cả chính ta đă làm cho ta. Quá khứ, cái quá khứ bản thân của ta, không có chi là hoàn tất như ta đă được hướng dẫn để tin như thế. Nó sinh động và khỏe khoắn, năng động và bệnh hoạn, trong các hoài niệm và kư ức của ta. Ở những khúc quanh khác nhau trong đời, ta được mời gọi thăm ḍ cái phần sống động của bản ngă ấy và tăng tiến diễn tŕnh không ngừng ḥa giải và tích nhập, nói lên sự lớn mạnh của chúng ta trong nhân đức tự thân mật với ḿnh.

Khả thể tha thứ là một khả thể lạ lùng nhất trong các mạc khải của Kitô giáo. Khi trái tim ta cứng lại (chống lại chính ta) và tha thứ xem ra không thể có được hay không thể chịu được, th́ Phúc Âm dạy ta khác thế. Mạc khải Kitô giáo dạy ta rằng ta có thể chờ mong điều phi thường ấy từ ngay chính nơi ta.

Sự ḥa giải với cái phần bị thương chưa được tha thứ của quá khứ tôi đă trừ khử hết quyền lực của nó trên tôi. Ta có thể dùng các hạn từ tự bảo vệ và tự bảo tồn năng lựợng để thảo luận về hậu quả quan trọng của việc ḥa giải này. Tự vệ đâu có chi xấu. Tất cả chúng ta đều cần tự vệ để sống thoát các đ̣i hỏi và tấn kích của cuộc đời. Ấy thế mà đôi lúc ta lại cảm nhận như ḿnh có khuynh hướng tự vệ thái quá. Khi bắt gặp ḿnh liên tiếp lo điểm trang, chỉnh lại càvạt, hay vuốt lại mái tóc, ta có thể nhận ra cái năng lượng ḿnh đang tiêu phí hàng ngày để bảo tồn cái tôi mỏng ḍn kia. Dùng bông đùa hay cọc cằn hoặc những chứng minh thư giới thiệu, ta đă lên binh giáp cho ḿnh chống lại những cuộc tấn công được dự ứng trước, dù có thật hay chỉ tưởng tượng.

Tới lúc trưởng thành và đă cảm thấy dễ chịu với con người thực của ḿnh, ta cần tiêu phí bớt năng lượng đi trong việc tự vệ. Càng dễ chịu với con người đặc thù là bản thân tôi, với quá nhiều điểm yếu cũng như điểm mạnh, tôi càng ít cần đến tự vệ hoặc chứng tỏ ḿnh trước mặt người khác. Sau khi đă được người thân cũng như Chúa dạy cho biết tính đáng yêu, các nhược điểm cũng như nhiều điều khác của ḿnh, tôi cần phải ít chú ư và ít tiêu phí hơn các năng lượng của ḿnh để che giấu các điểm yếu của bản thân, bằng cách phô bầy khuôn dung đẹp nhất và đánh bóng các thiếu sót, cả thể lư lẫn thiêng liêng, của ḿnh.

Đó chính là năng lượng được tiết kiệm, được bảo tồn và được chuộc lại. Khi đă giữ được cái năng lượng này khỏi rơi vào chỗ tự vệ, tôi có thể đầu tư nó vào các cố gắng chăm sóc người khác và quan tâm tới thế giới. Người bạn đời của tôi, con cái tôi, nghề nghiệp tôi, hết thẩy đều cần năng lượng của tôi cả. Thân mật với chính ḿnh mời gọi ta biết dùng cái năng lượng bản thân kia một cách có hiệu năng và hợp nhân đức hơn. Và điều đó, nghịch lư thay, lại là dấu chỉ sự chân thực của nó: nhờ thận trọng và đầy yêu thương chú ư đến chính cuộc đời ḿnh, tôi đă giải thoát được nguồn năng lượng của bản thân mà trước đây đă được tiêu phí để tự vệ và tự chế, giải phóng nó để chăm sóc mạnh mẽ hơn cho thế giới bên ngoài tôi.

 

Yêu Ḿnh Thái Quá Và Cái Nh́n Thông Sáng Của Tôn Giáo

  Kitô hữu từng học cách biết nghiêm khắc đối với việc “nh́n vào bên trong”. Cái nội quan ấy thường được cảm nhận có tính vị kỷ, làm ta sao lăng người khác và chính Chúa, là những người ta phải phục vụ. Việc người Kitô hữu ghét ḿnh có gốc rễ nơi thần học về Cuộc Sa Ngă, từng giải thích nguyên tội như là việc quay mặt vào chính ḿnh. Nền thần học ấy hiểu bản tính con người như hướng chiều về việc chú tâm đến ḿnh một cách hẹp ḥi; nó thúc giục ta phải học cách quay hướng cái nh́n ấy. Trong cái hiều ấy, tu đức học Kitô giáo hướng cái nh́n của ta ra khỏi ḿnh, khỏi thân xác ta, điều ấy chắc chắn rồi, nhưng cũng ra khỏi các tham vọng cũng như hy vọng của ta nữa. Tất cả xem ra đều là vị kỷ. Nếu ta đă hư đốn ngay từ bên trong, th́ nội quan chẳng có mục đích tôn giáo nào cả. Đúng hơn, nó hướng ta về trạng huống quá tự yêu ḿnh (narcissism). Như thế, tự thân mật với ḿnh chắc chắn không phải là một nhân đức mà là một thói hư, một h́nh thức tự bạo hành ḿnh về phương diện thiêng liêng.

Về một nội quan như thế, hai vấn nạn sau đây quả có liên hệ: ta sẽ nh́n chính ta thế nào, và mong thấy được điều chi. Anh chàng Narcissus nh́n xuống ao và thấy ḿnh trong đó, hay nghĩ là ḿnh nh́n thấy. Cái phản chiếu từ nước, mờ mờ ảo ảo ấy, làm anh ta ngây ngất, thu hút hết chú ư của anh ta. Anh ta ngắm đi ngắm lại, quên hết mọi sinh hoạt khác.

Cũng một h́nh ảnh ngắm nh́n ḿnh trong ao ấy thường xuất hiện trong truyền thống Phật Giáo, nhưng với một ư nghĩa khác hẳn. Theo một trong những truyền thống Phật Giáo, mỗi con người đều giống như một ao nước bùn và quấy động. Ta được mời làm yên cái quấy động ấy, đặt kỷ luật cho đời ta cho đến lúc bùn lầy kia lắng xuống và nước trong tĩnh xuất hiện. Rồi cái nh́n có kỷ cương vào nước sẽ không phát hiện h́nh ảnh cá nhân, nhưng là h́nh ảnh bản nhiên của Phật. Ẩn sâu trong ḷng ao không phải là h́nh phản chiếu tư riêng của tôi, nhưng là một bản sắc nối kết tôi với mọi sinh linh khác và nhờ làm thế, mà cho tôi biết thực sự tôi là ai. Một nội quan như thế không dẫn đến việc chú tâm đến ḿnh một cách đầy ám ảnh, nhưng đến việc nhận ra tôi thực sự là ai và tôi thực sự thuộc về đâu. Nội quan Kitô giáo cũng thế, v́ chính nó cũng được dùng để làm yên những băo táp do các mối sợ, các tham vọng cũng như các sao lăng gây ra cho cuộc đời, sẽ mạc khải cho ta cả căn tính lẫn sự hiện diện của Chúa. Căn tính sâu xa nhất của tôi không phải là cái tôi cá nhân chủ nghĩa, cô lập. Căn tính ấy là một căn tính chung, và ở đây ta thấy nền huyền nhiệm Phật và Kitô giáo nhất trí với nhau; v́ đối với Kitô hữu, đó chính là sự nên một với người khác trong Thiên Chúa. Đây vừa là một dụ ngôn vừa là một nghịch lư: nhờ một nội quan có kỷ cương mà ta khám phá ra tính cộng đoàn của ta với người khác. Nh́n vào bên trong mà xa rời niềm tin như thế là diện đối diện với chỉ một ḿnh tôi mà thôi; nh́n vào bên trong với đức tin là diện đối diện với Thiên Chúa. Trong việc nhận ra ấy, tức cái “ngộ đạo”, dù là bất thần hay tiệm tiến này, ta được cứu thoát khỏi t́nh trạng quá tự yêu ḿnh v́ ta thấy cả ḿnh là ai lẫn ḿnh thuộc về ai nữa.

Bởi thế có những cách khác nhau để nh́n vào bên trong. Tính tự yêu ḿnh thái quá, một thứ thúc ép và làm ta sao lăng, khiến tôi quanh quẩn liên tiếp và vô vọng đi t́m cái ngă của ḿnh. Cuộc lùng t́m ấy không phải là dấu chỉ của t́nh thân mật với chính ḿnh nhưng là dấu hiệu thiếu vắng nó. Tính tự yêu ḿnh thái quá không phải là khả năng tự yêu ḿnh mà là thiếu khả năng yêu và dễ chịu với chính ḿnh. Tính thúc ép nơi con người tự yêu ḿnh thái quá, tức là người cứ phải loay hoay đi t́m xem “ḿnh là ai” mỗi khi có cuộc tŕnh diễn hay liên hệ mới, cho ta thấy sự khó chịu của họ với chính cái tôi của ḿnh. Việc bận rộn đi t́m như thế cho thấy sự bất an của họ với cái ngă của ḿnh. Nội quan theo nghĩa tự yêu ḿnh thái quá phát sinh không phải từ ḷng tự qúy (self-esteem), mà là từ hướng ngược lại.

An b́nh

Nội quan Kitô giáo được hướng dẫn bởi xác tín về tính đáng yêu bên trong của ta và một hiện diện trường cửu trong đó. Có thể không phải lúc nào tôi cũng cảm nghiệm được sự hiện diện kia hay tính đáng yêu của ḿnh, nhưng tôi tin chắc vào chúng. Tôi nh́n vào bên trong để đáp trả lời mời gọi làm bạn với cái con người được Chúa yêu thương là thế. Tự thân mật với ḿnh, trong tư cách một nhân đức Kitô giáo, được khai triển qua nhiều năm nhẫn nại và khoan dung lắng nghe cái tôi số nhiều và không ngừng tỏ ḿnh ra ấy. Dần dần, tôi đạt tới việc phân biệt được các hạn chế bản thân cần được thay đổi và các hạn chế bản thân cần được khoan thứ và ôm lấy. Càng ư thức sắc cạnh hơn về ḿnh, tôi càng thấy ra không những các giới hạn và bất toàn của ḿnh, mà cả tính đáng yêu của ḿnh nữa. Tôi c̣n có thể cảm nhận một cách rờ mó được một hiện diện bên trong, một hiện diện không những không làm tôi sao lăng chính căn tính của ḿnh mà c̣n khích lệ tôi đi sâu vào nó hơn.

 

Nửa Đời Người Và Hôn Nhân: Căn Tính Lớn Mạnh Chỗ Nào

  Kiến thức cần có thời gian; việc tự biết ḿnh, để kính trọng và khoan dung hơn với con người đặc thù là chính bản thân tôi này, cần cả hàng chục năm.

Trong những năm đầu đời trưởng thành, ta có rất ít tư liệu về chính bản thân ḿnh. Khả thể th́ nhiều; cơ hội, lư tưởng và ước mơ thành công không thiếu. Các hoài mong của người khác trói buộc rất chặt các mối hy vọng của chính ta. Năng lực của ta vừa phấn khích vừa làm ta sao lăng. Ở đầu đời trưởng thành, ta thường phí phạm một cách không cần thiết khá nhiều th́ giờ vào việc kiểm nghiệm các tiêu chuẩn bên ngoài xem ḿnh làm ăn ra sao; ta t́m cách để “chứng tỏ” ḿnh, nghĩa là để ai đó hay một việc nào đó có thể chứng thực cho căn tính và giá trị của ta.

Người bạn đời là phương thế cho việc tự phát hiện chính tôi. Con cái tôi nữa cũng góp phần đáng kể vào việc phát hiện này v́ chúng lôi ra khỏi tôi đủ cả sợ sệt lẫn nổi sùng mà trước đây tôi đă thành công che giấu chúng, đối với cả chính tôi nữa.

Người ta thường diễn tả việc trưởng thành như là diễn tŕnh “đi t́m bản thân”, tiến đến việc ư thức được ta có khả năng ra sao đối với việc ḿnh đang làm, cũng như ḿnh có những giới hạn nào. Ư thức này mỗi ngày một ít dựa vào các tiêu chuẩn bên ngoài hoặc sự phê chuẩn của người khác. Càng t́m thấy ḿnh, ta càng nhận thấy ít nhu cầu phải chứng tỏ ḿnh hơn.

Điều ở tuổi 25 ta không thấy đâu th́ đến tuổi 40 hay gần như thế sẽ trở nên rơ ràng hơn: ư thức được những điểm mạnh trước đó ta không ngờ; những giấc mơ trước đó vốn chôn kín dưới những cái “phải thế này thế nọ” trong các hoài mong của người khác, nay đă hiện diện; các mối sợ sệt thoáng hiện lúc thiếu thời nay có h́nh thù cụ thể. Tất cả những điều ấy cho thấy tự thân mật với ḿnh là một nhân đức được nhận thấy rơ vào lúc nửa đời.

Tự thân mật với ḿnh không phải là một việc tư riêng. Ai trong chúng ta cũng phải nh́n nhận rằng rút vào cô lập ḥng học biết về ḿnh và yêu ḿnh quả là điều không hữu hiệu. Đối với phần đông chúng ta, hôn nhân và gia đ́nh là hai lănh vực của thách đố tự thân mật với chính ḿnh kia. Chính người bạn đời trong hôn nhân, con cái, bằng hữu và đồng nghiệp giúp ta nhận ra ta là ai và ta trở nên con người như thế nào. Người phối ngẫu thường thấy nhiều điều của tôi trước khi tôi thấy chúng, một điều vừa phấn khích vừa làm ta bẽ mặt trong hôn nhân. Như thế, người bạn đời là phương thế cho việc tự phát hiện chính tôi. Con cái tôi nữa cũng góp phần đáng kể vào việc phát hiện này v́ chúng lôi ra khỏi tôi đủ cả sợ sệt lẫn nổi sùng mà trước đây tôi đă thành công che giấu chúng, đối với cả chính tôi nữa. Penelope Washbourne trong Trở Thành Đàn Bà (Becoming Women) nói về vai tṛ của con cái trong lời mời gọi tự thân mật với ḿnh như sau:

Tôi khiếp đảm khi thấy cái năng lực cháu nó xổ tung các xúc cảm trong tôi, cả những xúc cảm thương yêu cũng như các xúc cảm giận dữ. Tôi không nghĩ về tôi như một con người bạo lực, nhưng qua cháu tôi biết tôi quả là con người ấy…Hỡi các con thân yêu của chúng ta. Các con có năng lực tiêu hủy mọi thứ giả tạo và dồn chúng ta để chúng ta thấy rơ chúng ta là ai, làm chúng ta khiêm hạ nhận ra ḿnh với mọi thứ mặt nạ bị xé nát tan tành! (tr.125).

Việc lột mặt nạ cái tôi kia, do người phối ngẫu và con cái tôi, phát hiện cho tôi nhiều điều chắc chắn về tôi và mời gọi tôi vừa thay đổi vừa chấp nhận ḿnh cách mới hẳn.

V́ là một nhân đức, việc tự thân mật với ḿnh tùy thuộc nhiều vào các kỹ năng cần thiết để phát triển nó cách thực tiễn. Có cảm nhận những bất ổn hay mộng ước bên trong, ta mới bị thách thức phải dành th́ giờ mà lắng nghe; càng lắng nghe, ta càng cần tới khả năng nêu tên các cảm xúc của ḿnh. Cần có can đảm và kỹ năng, ta mới chia sẻ những tư liệu gây bối rối và phấn khích này với những người thân cận nhất với ta. Việc lắng nghe, nêu tên và chia sẻ có tính cách kỹ năng ấy sẽ hướng dẫn các diễn tŕnh hoà giải và tha thứ vốn là thành phần quan yếu trong việc tự thân mật với ḿnh ở tuổi nửa đời người.

 

Cô Đơn và Cô Tịch

 

Tất cả chúng ta đều dành nhiều th́ giờ để sống một ḿnh. Dù bận rộn bao nhiêu, ta vẫn sống “trong ta”, phải đối diện với cuộc sống nội tâm của ḿnh. Cô đơn và cô tịch nói lên hai cách thế rất khác nhau ta phải hiện diện với chính ḿnh; mỗi t́nh huống đều có liên hệ với diễn tŕnh trưởng thành của ta trong việc tự thân mật với ḿnh.

Cô đơn (loneliness) có nhiều hàm nghĩa. Đối với chúng ta ở đây, từ này diễn tả cảm nghiệm không thoải mái với chính ḿnh. Tôi có thể cô đơn trong đám đông cũng như lúc ở một ḿnh. Cô đơn xẩy tới khi tôi ra xa lạ (alienated) với chính các tài nguyên của ḿnh. Nghi ngờ, khiếp đảm, hay tởm gớm chính ḿnh, nên tôi không thể thoải mái với chính bản thân ḿnh. Tôi không dễ chịu với điều đang có trong tôi nên tôi cần phải khuây khỏa; tôi bèn vặn nhạc lên, nói lớn tiếng, hay làm ḿnh bận bịu. Khi cô đơn, ta thấy khó mà tĩnh tâm hay cầu nguyện; sự cô đơn khiến ta sao lăng cả chính ḿnh.

Tự thân mật với ḿnh và cô tịch cho thấy một t́nh trạng yên tĩnh nào đó trong gia đạo. Cái êm dịu của cô tịch nhắc ta nhớ rằng việc hiện diện với chính tôi không luôn luôn là một cảm nghiệm vui thích.

Madonna Kolbenschlag, trong tác phẩm Hôn Từ Giă Người Đẹp Đang Ngủ (Kiss Sleeping Beauty Good-bye), cho hay ghen tức (envy) là đặc tính của người không thoải mái với chính ḿnh. V́ thiếu tự tin nơi chính tôi, nên tôi cần xem chừng xem có ai hơn ḿnh, có dáng đáng yêu hơn ḿnh, tiến bộ trước ḿnh hay không. V́ không tin tưởng vào các tiêu chuẩn bên trong đo lường giá trị của tôi, nên tôi buộc phải t́m ở bên ngoài các định mức cho căn tính và giá trị của ḿnh… V́ sống trong phong thói hướng ra người khác như thế, tôi trở thành con mồi không những cho ḷng ganh ghét mà cả cho t́nh trạng trầm cảm nữa. V́ trầm cảm thực ra là khó chịu, là cảm thấy không thỏa măn với ḿnh một cách nghiêm trọng. Tôi bất măn với các giới hạn, các thiếu sót, với chính nét đặc thù của ḿnh. Người trầm cảm và ganh ghét mong ước ḿnh là một người khác, hiện diện nơi khác. Họ không thoải mái với chính họ. Kolbenschlag cho rằng ganh ghét có thể là cám dỗ đặc biệt của phụ nữ. Trong nền thần học cổ điển của Kitô giáo, tội nặng nhất là tội kiêu ngạo và vỗ ngực về ḿnh (self-assertion). Ngược lại, ganh ghét là tội của người không chịu vỗ ngực về ḿnh, thất bại không t́m thấy ḿnh và trở nên chính ḿnh. Nhân đức Kitô giáo, giúp tăng sức mạnh để ta vượt qua tội ganh ghét cũng như bệnh trầm cảm và lẻ loi, chính là tự thân mật với ḿnh.

Cô tịch (solitude) là một cảm nghiệm khác của việc sống một ḿnh. Các hàm ư của nó khác với cô đơn: cô tịch không phải là ra xa lạ nhưng là một thinh lặng êm dịu: một thoải mái, có lẽ pha một chút buồn, với việc ở một ḿnh. Ta bắt đầu cuộc suy tư này với h́nh ảnh cái tôi như số nhiều, bao gồm một loạt các khả năng, các thiếu sót lẫn hàm hồ lưỡng nghĩa. Căn nhà của bản ngă, do đó, có đủ thứ cư dân cư ngụ. Tự thân mật với ḿnh và cô tịch cho thấy một t́nh trạng yên tĩnh nào đó trong gia đạo. Cái êm dịu của cô tịch nhắc ta nhớ rằng việc hiện diện với chính tôi không luôn luôn là một cảm nghiệm vui thích. Tự thân mật với ḿnh bao hàm không phải việc trục xuất hay chối từ tất cả các phần thất bại hay chưa hoàn tất trong tôi, nhưng là ôm lấy các khía cạnh ấy. Cô tịch gợi lên ư niệm thanh thản sâu sắc với con người đặc thù là chính bản thân tôi. Trở lại với ẩn dụ coi bản ngă như căn nhà: phần nào đó, căn nhà nào cũng bị (ma) ám. Ta thường hay nói về các gia đ́nh có bộ xương khô trong pḥng để đồ (skeletons in the closet). Căn nhà nội tâm của tôi cũng thế. Người cô đơn, không thoải mái với nhiều cư dân của bản ngă, thường có khuynh hướng tránh xa khỏi nhà. Trái lại, lúc cô tịch, tôi trở nên có ư thức hơn, và thoải mái hơn, với các bộ xương khô và các con ma chưa được giải trừ trong cuộc sống nội tâm của tôi. Sự thoải mái này, đến lượt nó, sẽ góp phần giúp tôi kết thân và thuần hóa, nói cách khác là tích hợp cái tôi số nhiều của ḿnh.

Hoa trái của tự thân mật với ḿnh, được cảm nhận trong cô tịch, là khả năng có thể sống một ḿnh. Tôi không cần phải chất đầy cuộc đời ḿnh một cách bừa băi bằng đủ mọi thứ sinh hoạt và công việc bề bộn. Đôi lúc, tôi có thể ngưng nói chuyện và để ồn ào lắng xuống. Việc này có thể làm được v́ tôi biết điều c̣n để lại cho tôi sau đó, nghĩa là chính bản thân tôi, là điều tốt. Sẽ không c̣n vọng động, mặc cảm tội lỗi cũng như chán chường để mà loay hoay nữa; chỉ c̣n lại cái bông đùa dịu dàng (ḿnh cũng lạ!) và niềm biết ơn (đời ḿnh quả có phúc!). Trong những khoảnh khắc cô tịch, bất kể là cưỡng đặt như lúc bị bệnh, hay tự ư chọn như lúc cầu nguyện và ngày tĩnh tâm, tôi có thể lắng nghe một cách phó thác hơn các giọng nói trong tâm khảm. Trong số các giọng nói này, tôi mong nghe được tiếng nói của Thiên Chúa chúc phúc cho tôi, ban cho tôi tầm nh́n và niềm hy vọng mới.

 

Đọc Thêm

  Việc khai triển ra sự thân mật với ḿnh được bàn thảo dưới nhiều danh xưng khác nhau và được theo đuổi dưới nhiều chiến lược khác nhau. John English, một linh mục ḍng Tên người Gia Nă Đại, trong cuốn Choosing Life (Paulist Press, 1978) phác họa ra một phương pháp suy tư và quyết định bản thân dựa trên các nhân đức Kitô giáo. Trách vụ có tính tôn giáo phải tha thứ một phần cái quá khứ của ta được Dennis Linn và Matthew Linn thăm ḍ trong Healing Life’s Hurts (Paulist Press, 1978). Muốn biết các suy tư và thực tập thực tiễn nhắm tới tự thân mật với ḿnh, xin xem cuốn Our Many Selves (Harper & Row, 1971) của Elisabeth O’Connor. Một suy tư trọn vẹn hơn về nhân đức này được Louis Dupré cung cấp trong Transcendent Selfhood: The Loss and Rediscory of the Inner Life (Seabury, 1976)…

Henry Nouwen khảo sát tầm quan trọng và điểm mạnh của cô tịch trong Clowning in Rome (Doubleday Image, 1979). Về cảm nghiệm cô đơn, xin xem cuốn The Wounded Healer (Doubleday Image, 1979) của ngài. Trong phần đầu cuốn The Culture of Narcissism (Norton, 1978), Christopher Lasch dựa vào tư duy phân tâm học gần đây để đưa ra một miêu tả tuyệt vời về ḷng tự yêu ḿnh thái quá. Chẳng may, lời chỉ trích chua cay ở những phần c̣n lại của sách đă làm hỏng giá trị toàn diện của nó.

 

Vinc. Vũ Văn An

 

Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5


Xem các bài viết khác trong Vũ Văn An , Khoá 3 GHHV Đà Lạt Việt Nam.