XÂY DỰNG MÔ H̀NH GIÁO HỘI THAM GIA
ĐỂ THỰC THI SỨ VỤ

1 2

MichelAnge

 

 

(MỪNG NĂM THÁNH TRUYỀN GIÁO 2010)

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

I. VÀO ĐỀ

Để chuẩn bị Năm Thánh 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đă soạn thảo một tài liệu rất có gía trị, mang tên:

 

ĐỀ CƯƠNG GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
MẦU NHIỆM - HIỆP THÔNG - SỨ VỤ

Đề Cương Giáo Hội tại Việt Nam – Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ

vừa là

* Định Hướng (Orientation) cho việc xây dựng Giáo Hội tại Việt Nam khởi đi từ Năm Thánh 2010;

vừa là

* Kim Chỉ Nam (Pastoral Guidelines) tức Đường Hướng Mục Vụ cho mọi hoạt động của tất cả các Cộng Đoàn Dân Chúa thuộc 26 Giáo Phận của 3 Giáo Tỉnh Hà Nội-Huế-Sàig̣n.

Chủ đề đợt sinh hoạt của chúng ta là XÂY DỰNG MÔ H̀NH GIÁO HỘI THAM GIA ĐỂ THỰC THI SỨ VỤ. Thật ra muốn đầy đủ th́ chủ đề phải là XÂY DỰNG MÔ H̀NH GIÁO HỘI THAM GIA ĐỂ THỰC THI SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA CHO DÂN TỘC VIỆT NAM.

 

II. TR̀NH BÀY

 

2.1 TỪ MẦU NHIỆM GIÁO HỘI HIỆP THÔNG

Để hiểu đề cương trên chúng ta phải nhắc lại mấy điều căn bản này:

 2.1.1 Hội Công Giáo được thiết lập như “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.” Nói cách khác Giáo Hội Công Giáo được thiết lập là để loan báo Tin Mừng hay giới thiệu Chúa Giê-su Ki-tô cho mọi người. Đó là sứ vụ của Giáo Hội Công Giáo nói chung và Giáo Hội tại Viêt Nam nói riêng.

 2.1.2 Để hiểu tại sao Giáo Hội có sứ vụ cao trọng ấy th́ chúng ta phải t́m về bản chất đích thực của Giáo Hội:

- Giáo hội được khai sinh từ Mầu Nhiệm Ba Ngôi,

- Giáo hội là Dân Chúa (dân tư tế, dân thánh, dân giao ước),

- Giáo hội là Thân Ḿnh Chúa Ki-tô,

- Giáo hội là Đền Thờ Chúa Thánh Thần,

 2.1.3 Bản chất thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả bằng từ Hiệp Thông.

(a) Trong tiếng Việt, những từ hiệp lễ, các thánh cùng thông công, hiệp thông, nghe như không có liên hệ ǵ với nhau, nhưng trong gốc La tinh, tất cả 3 từ ấy đều là communio. (tiếng Hy Lạp là koinonia). Thực tại sâu xa nhất của Giáo hội chính là sự hiệp thông (koinonia) bắt nguồn từ sự hiệp thông của chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo nguyên nghĩa koinonia có nghĩa là sự thông phần vào những thiện hảo của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng: thông phần vào Thánh Thần, vào sự sống mới, vào t́nh yêu, vào Tin Mừng và trên hết là thông phần vào Thánh Thể (hiệp thông của các thánh = communio sanctorum; hiệp lễ): “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là thông phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là thông phần vào Thân Thể Người sao?” (1 Cr 10,16). Như thế hiệp thông trước hết là sự hiệp thông của người tín hữu với Thiên Chúa, sự hiệp thông làm cho họ nên một với Thiên Chúa và được diễn tả qua những tương quan hài ḥa với Chúa trong cuộc sống của họ. Điều đó khơi nguồn cho mối hiệp thông mà các Ki-tô hữu chia sẻ cho nhau trong Đức Ki-tô qua tác động của Thánh Thần. Đức Giáo hoàng đương kim Bênêđitô XVI (là nhà thần học Ratzinger) gọi là sự hiệp thông từ bên trong và từ bên trên. Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II gọi là chiều ngang và chiều dọc của mầu nhiệm hiệp thông duy nhất.

(b) “Giáo hội học về hiệp thông là ư tưởng nền tảng và trung tâm của các văn kiện Công đồng” (THĐGM 1985). Mô h́nh Giáo hội như là hiệp thông là mô h́nh được nhấn mạnh nhất hiện nay.

(c) “Các Nghị phụ đă chọn mô tả giáo phận như là sự hiệp thông của các cộng đoàn quy tụ chung quanh chủ chăn, ở đó hàng giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân đều tham dự vào cuộc đối thoại bằng cuộc sống và con tim được ân sủng Thánh Thần nâng đỡ.” (Gio-an Phao-lô II, Giáo hội tại châu Á, 25).

[Xem tài liệu 5 mô h́nh về Giáo Hội của Giám Mục Phê-rô Nguyễn Văn Khảm].

 Nói tóm lại: Giáo Hội Hiệp Thông là nói đến sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người, sự hiệp thông giữa con người với con người, sự hiệp thông giữa các phần tử thuộc Giáo Hội, sự hiệp thông giữa Cộng Đoàn Giáo Hội địa phương. Sự hiệp thông được thể hiện qua việc

* tuyên xưng một đức tin, chia sẻ một thần khí và một đời sống bí tích.

* vâng phục Đức Giáo Hoàng, sống theo hướng dẫn của Người.

* gắn bó với Giám Mục Đoàn nói chung, với Giám Mục Giáo Phận nói riêng.

* quan tâm, chia sẻ, cộng tác, nâng đỡ nhau, trong lănh vực mục vụ, thần học, truyền giáo, trợ giúp vật chất với Giáo Hội tại các quốc gia khác;

* cùng chia sẻ trách nhiệm giữa các thành phần Dân Chúa.

 

2.2 ĐẾN MÔ H̀NH GIÁO HỘI THAM GIA

 

2.2.1 Khái niệm về «Giáo hội tham gia » hay «Giáo hội trong đó mọi người có phần và góp phần» (Participatory Church):

- mọi tín hữu đều b́nh đẳng.

- mỗi phần tử đều được trân trọng. «Đặc sủng của mỗi phần tử cần được nh́n nhận, phát triển và sử dụng cách hiệu quả» (Gio-an Phao-lô II)

- tất cả đều đồng trách nhiệm.

- mọi người đều được tham gia và có trách nhiệm đối với những quyết định chung mang tính tập thể, tuy vẫn tôn trọng vai tṛ chủ chăn.

 

2.2.2 Để xây dựng mô h́nh Giáo Hội Tham Gia, cần thực hiện những điều cơ bản sau đây:

- Giúp giáo sĩ, giáo dân, thay đổi nhận thức về Giáo hội như một gia đ́nh cũng như về vai tṛ của ḿnh trong Giáo hội.

- Mạnh dạn thay đổi cách hành xử «bao cấp» hay «quan liêu».

- Tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào việc bàn kế hoạch mục vụ cũng như tiến tŕnh đi đến quyết định (HĐMVGX, Hội Nghị Giáo Xứ)

- Thiết lập cơ cấu mục vụ: Hội đồng linh mục, Hội đồng mục vụ giáo phận, Hội đồng mục vụ giáo xứ.

 

(1o) Canh tân, đổi mới tư duy các thành phần Dân Chúa.

“Với ư thức chân chính về mối hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa, chúng ta nên mạnh dạn và nhanh chóng rời bỏ những cách hành xử “bao cấp” hay “quan liêu”, theo kiểu giáo sĩ cung ứng tất cả mọi sự, giáo dân phải lệ thuộc giáo sĩ, để xây dựng một Giáo Hội tham gia. Giáo Hội ấy, như Thánh Phaolô mô tả, “không c̣n là Do Thái hay Hy Lạp” (1 Cr 3,28), nhưng chỉ là một trong đức tin, đức cậy, và đức mến, nhiệt t́nh trong một sứ mệnh duy nhất. Đức Gio-an Phao-lô II diễn tả Giáo Hội tham gia là Giáo Hội “trong đó tất cả đều sống ơn gọi riêng của ḿnh và hoàn thành vai tṛ riêng của ḿnh, đặc sủng độc đáo của mỗi phần tử cần được nh́n nhận, phát triển và sử dụng cách hiệu quả"[1]. Trong các cộng đoàn, giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ nh́n nhận và đón nhận nhau như anh chị em. Tất cả cùng được kêu gọi và quy tụ bởi Lời Chúa, bởi Đức Ki-tô Phục Sinh đang hiện diện thúc đẩy họ tham gia vào các hội đoàn hay các nhóm nhỏ Ki-tô hữu để kinh nghiệm thế nào là mầu nhiệm Giáo Hội qua việc cầu nguyện và chia sẻ lời Chúa, sống phục vụ và yêu thương trong sự đồng tâm nhất trí [2]. Chính nhờ thế mà cảm thức thuộc về một Gia đ́nh của Đức Kitô được triển nở, đến nỗi mọi người có thể nói bằng tất cả trách nhiệm và niềm hănh diện rằng “Tôi là Giáo Hội”[3]. Đó là cách sống mầu nhiệm Giáo Hội cách mới mẻ mà Giáo Hội tại Việt Nam cần thực hiện [4]. V́ vậy, “cần cổ xúy giáo dân và tu sĩ nam nữ tham dự nhiều hơn vào việc bàn thảo kế hoạch mục vụ, cũng như vào tiến tŕnh đi đến quyết định, qua những cơ cấu có tính tham gia như các hội đồng mục vụ giáo xứ và hội nghị giáo xứ”[5] .

 

(2o) Nắm bắt những điều cốt yếu của mô h́nh Giáo Hội Tham Gia.

Liên Hội Đồng Giám mục Á châu đă cho chúng ta những điều cốt yếu không thể thiếu trong nhận thức về mô h́nh Giáo Hội tham gia:

(a) Mọi người tín hữu đều b́nh đẳng và không ai là công dân hạng hai, v́ cùng một ơn gọi, v́ nhận được cùng một Thần khí, và đón nhận nhau như anh chị em [6];

(b) Mỗi phần tử đều được trân trọng chứ không phải là một kẻ vô danh [7];

(c) Tất cả đều đồng trách nhiệm [8], v́ đă cùng nhận lệnh loan báo Tin Mừng [9];

(d) Mọi người, kể cả phụ nữ, đều phải được tham gia và có trách nhiệm đối với những quyết định chung, liên quan đến đời sống Giáo Hội [10].

 

(3o) Thiết lập và hoàn thiện các cơ cấu có tính tham gia trong Giáo Hội địa phương các cấp.

(a) Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ:

Thường th́ các Giáo phận đă có quy chế Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ. Nhưng việc triển khai và áp dụng quư chế ấy th́ mỗi nơi mỗi khác.

Điều trước tiên cần làm là phải đọc lại quy chế ấy để bổ sung nếu cần.

Điều cần làm tiếp theo là các giáo xứ chưa triển khai áp dụng quy chế này th́ phải mau chóng triển khai và áp dụng.

 (b) Hội Nghị Giáo Xứ:

Nếu các Chủ Chăn và Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ thực tâm muốn xây dựng mô h́nh Giáo Hội tham gia th́ ngoài cơ cấu Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ đă được giáo phận chỉ đạo, c̣n có một cơ cầu khác. Đó là Hội Nghị Giáo Xứ là tổ chức tập hợp mọi thành phần Dân Chúa thuộc Giáo Xứ cùng nhau bàn thảo về những vấn đế liên quan tới đời ssống và sự phát triển của Cộng Đoàn Giáo Xứ.

Có nhiều nơi thực hiện dưới h́nh thái Họp mở rộng Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ. Nhưng hội nghị giáo xứ th́ khác.

 Ghi chú:

Trong Tài Liệu Đề Cương chỉ nêu 2 cơ cấu tham gia là Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ và Hội Nghị Giáo Xứ. Nhưng theo Giáo Luật, th́ có nhiều cơ cấu ở cấp giáo phận cũng như ở cấp giáo xứ, trong đó có những cơ cấu có tính bắt buộc và cũng có những cơ cấu có tính tự do.

Các cơ cấu có tính bắt buộc là Hội Đồng Linh Mục Giáo Phận (GL 495-502), Hội Đồng Kinh Tế và Quản Lư Giáo Phận (GL 492-494), Hội Đồng Kinh Tế Giáo Xứ (GL 537).

Các cơ cấu có tính tự do và được Giáo Luật khuyến khích thành lập là Thượng Hội Đồng Giáo Phận (GL 460), Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận (GL 511-514), Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ (GL 536), và Hội Nghị Giáo Xứ (GL?).

 

2.3 NHỮNG CÁCH THỂ HIỆN GIÁO HỘI KHÁC TẠI CHÂU Á CỦA THẬP NIÊN 90 CỦA THẾ KỶ XX (MÔ H̀NH MẪU)

Lời giới thiệu:

Năm 1990 là cột mốc quan trọng đối với tất cả các Giáo hội Công giáo tại Á châu: từ ngày 17 đến 27 tháng 7 Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC: Federation of Asian Bishops Conferences) đă tổ chức Đại Hội toàn thể lần thứ 5 tại Bandung, Indonesia. Mục tiêu của Đại Hội này là “suy nghĩ và t́m ra con đường mà Giáo Hội phải đi tại lục địa rộng lớn là Châu Á này”. Đại Hội đă dựa vào một tài liệu rất có giá trị được Oswald Hirmer soạn thảo chu đáo và đầy đủ, để làm tài liệu cơ bản cho các buổi thảo luận trong Đại Hội. Tài liệu này có tựa đề là “Alternative ways of being Church in the Asia of the 1990’s”, tạm dịch là “NHỮNG CÁCH THỂ HIỆN GIÁO HỘI KHÁC TẠI CHÂU Á CỦA THẬP NIÊN 90”.

Tài liệu chia làm hai chương:

- Năm giai đoạn tiêu biểu của một Giáo hội trưởng thành.

- Chia sẻ Lời Chúa là một cách khác để thể hiện Giáo Hội.

 

 

Năm giai đoạn tiêu biểu của một Giáo hội trưởng thành

“Một Giáo Hội trưởng thành” vừa là ước mơ, vừa là mục tiêu cụ thể của rất nhiều người trong Giáo Hội, từ giáo phẩm cho tới giáo dân. Trong suốt một thời gian dài, sinh hoạt của Giáo Hội như dậm chân tại chỗ. Ai nấy đều có cảm tưởng là Giáo Hội không cần phải thay đổi chi cả, đă hoàn hảo cả rồi! Nhưng Công Đồng Va-ti-ca-nô II đă thổi một luồng gió mới vào trong Giáo Hội. Mọi người như bừng tỉnh và khám phá ra rằng: lư tưởng của một Giáo Hội cộng đoàn hiệp thông vẫn c̣̣n là một thực tại phải t́m kiếm và xây dựng. Chính v́ vậy mà khắp đó đây xuất hiện bao t́m ṭ̣i, thử nghiệm, khám phá hết sức lư thú và phong phú.

Khi đối chiếu với thực tế Giáo Hội, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra rằng: Không nhất thiết là năm giai đoạn phát triển này phải giống hệt nhau nơi mỗi giáo xứ, giáo phận. Đàng khác một giáo xứ, giáo phận có thể ở vào nhiều giai đoạn khác nhau tùy theo từng lănh vực khác nhau của đời sống Giáo Hội. Nhưng dựa vào năm giai đoạn tiêu biểu này, chúng ta dễ dàng khám phá ra giáo xứ, giáo phận của ḿnh đang ở đâu, và biết được giai đoạn tiếp theo là như thế nào. Điều này rất quan trọng, và năm giai đoạn đây cũng là năm cách thức khác nhau thể hiện Giáo hội... từ thấp tới cao, từ thiếu sót đến hoàn hảo, nếu lấy Va-ti-ca-nô II làm chuẩn.

Dù tài liệu và đường huớng xây dựng Giáo hội truởng thành đă đuợc Đại hộ́ toàn thể các Giám Mục châu Á quyết định cách nay 18 năm. Nhưng trên thực tế nhiều cộng đoàn Giáo xứ vẫn c̣n ở những bước đầu của tiến tŕnh trưởng thành. V́ thế mà chúng ta tài liệu vẫn c̣n nguyên giá trị.

----------------------

 

Giai đoạn 1: Một Giáo Hội đóng vai người chu cấp tất cả

 

1. H́nh vẽ tượng trưng:

Đây là giai đoạn đă qua, tuy chưa hẳn đă hoàn toàn qua, của một Giáo Hội mà vị linh mục là trung tâm, là người ban phát ân sủng và ban lệnh cho mọi người. Giữa các tín hữu với nhau, họ chỉ là những cá nhân riêng lẻ, rời rạc... Nếu có hội đoàn, th́ hội đoàn ấy cũng chỉ quây quần ở bên lề cộng đoàn và chỉ biết lo cho những người trong nội bộ mà thôi...

 

2. Ghi chú lịch sử:

Thật hữu ích nếu chúng ta nhớ lại mô h́nh trên của Giáo hội đă được phát triển như thế nào trong quá khứ. Nó giúp chúng ta hiểu rơ hơn những khó khăn mà chúng ta phải đương đầu khi chúng ta muốn thực hiện bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi Giáo hội. Từ “giáo dân” xuất phát từ từ Hy lạp Laos (nghĩa là dân) và từ này được Đức Giáo Hoàng Clêmentê I (93-97) sử dụng để phân biệt dân của Chúa với dân ngoại Ta Ethne.

Vào thế kỷ thứ III, các tu sĩ xuất hiện và đời sống tu tŕ sớm được coi là cách “hoàn hảo” để thể hiện người kitô hữu. Giới tu sĩ xuất hiện như một loại “siêu kitô hữu”. Ngài Gratian, luật sư của Giáo hội đă tuyên bố thẳng thừng rằng “có hai loại kitô hữu”.

Đến thế kỷ thứ XI-XIII, với sự phát triển của giáo triều Rôma, giáo sĩ với giáo luật bước vào sân khấu. Một người giáo dân chẳng là ǵ cả, v́ không có giáo luật mà cũng chẳng có uy tín. Vị mục tử trở thành ông chủ của đám tín hữu. Sự phân hóa giữa giáo sĩ và giáo dân thậm chí trở thành thù nghịch. Tông chỉ của Đức Bonifacio VIII có tựa đề “Giáo sĩ giáo dân” (ngày 2 tháng 2 năm 1296) đă bắt đầu bằng những lời lẽ thế này: “Giáo dân là thù địch của giáo sĩ. Điều đó đă được minh chứng một cách mạnh mẽ trong quá khứ và lại được giảng dạy trong thời đại chúng ta hiện nay”.

Giáo luật năm 1917 bảo đảm cho giáo dân quyền “được nhận từ giáo sĩ những ơn huệ thiêng liêng và sự hỗ trợ mạnh mẽ để được rỗi” (Gl 682). Không có quyền nào khác được dành cho giáo dân trừ việc cho phép họ được dạy giáo lư (GL 1453-1455) và quyền quản lư quĩ của Giáo hội địa phương (GL 1562).

Gánh nặng lịch sử của một hàng giáo dân “bị mất giá” là di sản mục vụ của chúng ta và cần được ghi nhớ. Hàng thế kỷ của chế độ chu cấp cho tín hữu mọi ơn thiêng liêng cần thiết, mà không dành cho họ một quyền nào khác ngoài quyền được “nhận”, đă để dấu ấn cho cả hàng giáo sĩ lẫn hàng giáo dân ngày nay. vTuy nhiên các Nghị phụ Công đồng Vaticanô II đă cho chúng ta một cái nh́n mới về giáo dân và nhấn mạnh đến phẩm giá chung được mọi thành phần Giáo hội cùng nhau chia sẻ (LG 32).

Ngay cả trước Công đồng Vaticanô II, chúng ta nhận thấy sự đổi hướng trong “thần học của các vị giáo hoàng”. Ngày 14 tháng 10 năm 1951, Đức Piô XII nhắn nhủ Đại Hội Thế giới lần I của Tông đồ giáo dân rằng: “Công giáo tiến hành... là công cụ trong tay hàng giáo phẩm và phải là cánh tay nối dài của hàng giáo phẩm, như đă xảy ra từ trước đến giờ” (AAS 43,1951,trang 789). Tại Đại Hội thế giới lần 2 của chính tổ chức Tông đồ giáo dân này (ngày 5 tháng 10 năm 1957), Đức Piô XII đă sử dụng một ngôn ngữ khác: “Cách làm tông đồ này (Công giáo tiến hành) luôn luôn là cách làm tông đồ của hàng giáo dân và không được trở thành tông đồ của hàng giáo phẩm, ngay cả khi việc tông đồ ấy được thực hiện với sự uỷ nhiệm của Giáo hội” (AAS 49,1957, trang 928).

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

 

 

 


Ghi Chú :

1- Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 25.

2- x. FABC IV, 8.1.1, trong For All, vol. 1, trg. 287 ; vol.2, trg. 138 ; Cv 4:32.

3- x. FABC IV, 3.3.3 ; BIRA I, 7 trong For All, vol.1, trg. 281. 110.

4- x. Gioan-Phaolô II, Huấn dụ dành cho các giám mục Việt Nam, nhân dịp Ad limina 21 – 01 – 2002.

5- Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia , 25.

6- x. International Congress on Mission, 6-10, trong For All, vol.1, trg. 150-51; FABC IV, 8.0, trong For All, trg. 287 ; Asian Integral Pastoral Approach, 4 trong For All, vol.2, trg. 138 ; OTC, The Spirit at Work in Asia Today, 5.7 trong For All, vol.3, trg. 324.

7- x. FABC IV, 2.3.3-2.3.9 ; 8.11-2 trong For All, vol.1, trg. 278-279 ; 287.

8- x. FABC III, 17.2 trong For All, vol.1, trg. 60.

9- x. FABC III, trong For All, vol.1, trg. 52. 60. 99. 112. 150.

10- x. Asian Colloquium on Ministries in the Church, trong For All, vol.1, trg. 90. 151. 193; x. FABC IV, 3.3 trong For All, vol.1, 183.

 


Mời đọc tiếp

1 2

Xem các bài viết khác trong Nguyễn Văn Nội, Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.