SƯU TẬP NHỮNG
GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
VỀ TRUYỀN GIÁO

1 2 3 4 5a 5b 6 7

MichelAnge

 

 

CHƯƠNG IV -
Phần 1

 

 

NHỮNG ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN GIÁO

 

Dẫn nhập:

Hiểu thế nào là Truyền giáo có thể xem là bước thứ nhất. Bước thứ hai là hiểu nội dung của Truyền giáo bao hàm những ǵ. Và bước thứ ba là hiểu công cuộc Truyền giáo cần được thực hiện bằng những đường lối nào. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ (Redemptoris Missio) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă đưa ra 9 đường lối Truyền giáo, bao gồm việc làm chứng cá nhân, đối thoại, thăng tiến con người, hội nhập văn hóa, loan báo, thiết lập các cộng đoàn Giáo Hội, v.v... Ở đây sẽ tŕnh bày một số đường lối phù hợp hơn với lục địa Á Châu chúng ta.

 

I. CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

46. Thật vậy, mọi Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói để biểu dương con người mới mà họ đă mặc lấy nhờ phép Rửa ( …. ) , để những người khác nh́n thấy những việc lành của họ mà ngợi khen Chúa Cha, cùng nhận thức đầy đủ hơn ư nghĩa đích thực của đời sống con người và mối dây liên kết toàn thể cộng đồng nhân loại.
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, 11)

47. Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy; tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lư; tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lư thuyết. H́nh thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Kitô hữu; h́nh thức này là điều không thể thay thế được. Đức Kitô, Đấng mà chúng ta đang tiếp tục sứ mạng của Người, là “Vị chứng nhân” tuyệt hảo (Kh 1,5 ; 3,14) và là khuôn mẫu cho chứng tá Kitô giáo. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo Hội trên bước đường của Giáo Hội, đồng thời liên kết Giáo Hội với lời chứng của Người về Đức Kitô (Ga 15,26-27).

H́nh thức đầu tiên của chứng tá là chính đời sống của nhà truyền giáo, của gia đ́nh Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội. H́nh thức này làm cho người ta nh́n thấy một lối sống mới. Cho dù vẫn có giới hạn và bất toàn của con người, nhưng khi nhà truyền giáo chân thành sống theo gương Đức Kitô, th́ họ là một dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt. Tuy vậy, mọi ngươi trong Giáo Hội, khi nỗ lực noi gương Thầy Chí Thánh, th́ có thể và phải nêu lên chứng tá này; trong rất nhiều trường hợp, đây là cách thế duy nhất để là nhà truyền giáo.

Chứng tá Tin Mừng mà thế giới dễ cảm nhận nhất là chứng tá về thái độ lưu tâm đến con người và về ḷng bác ái đối với những người nghèo, những người nhỏ bé và những người đang đau khổ. Tính vô vị lợi trong thái độ và trong hành động này tương phản sâu xa với thái độ ích kỷ hiện nay nơi con người, gợi lên những thắc mắc rơ ràng về Thiên Chúa và về Tin Mừng. Cũng vậy, việc dấn thân phục vụ ḥa b́nh, công lư, nhân quyền, thăng tiến con người, là một chứng tá Tin Mừng, tùy nó chú ư nhiều đến con người và nhắm phát triển toàn diện con người đến mức nào.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 42).

48. Giáo Hội được mời gọi làm chứng cho Đức Kitô bằng cách bày tỏ những lập trường can đảm có tính ngôn sứ trước sự băng hoại của quyền lực chính trị hoặc kinh tế, bằng cách không t́m vinh quang cũng như của cải vật chất, bằng cách sử dụng những ǵ ḿnh có để phục vụ những người nghèo khổ nhất, và bằng cách noi gương đời sống đơn sơ của Đức Kitô. Giáo Hội và các nhà truyền giáo cũng phải nêu lên chứng tá về ḷng khiêm tốn, trước hết đối với chính ḿnh, khi dám tự kiểm thảo ở mức độ cá nhân cũng như cộng đoàn, ngơ hầu sửa chữa lại, trong cách sống của ḿnh, những ǵ đi ngược với Tin Mừng và làm biến dạng dung nhan của Đức Kitô.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 43).

49. Xác tín tầm quan trọng của các chứng nhân chính hiệu trong công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đă tuyên bố :”Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được công bố bởi những người được thúc đẩy và linh hứng bởi t́nh thương Chúa Cha dành cho con cái Ngài, biểu lộ qua con người Giêsu Kitô. Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đ̣i phải có những người thánh thiện làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế ấy qua chính đời sống ḿnh. Ta chỉ có thể đốt lửa bởi một vật ǵ đó đang cháy. Thế nên, Tin Mừng chỉ có thể được loan báo một cách thành công tại Châu Á, khi các Giám Mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang rạo rực t́nh yêu đối với Đức Kitô, khao khát làm cho Ngài được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến và theo đuổi nhiều hơn. Kitô hữu nào giới thiệu Đức Kitô th́ phải đưa sứ điệp mà ḿnh sắp công bố vào đời sống của ḿnh .
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 23).

 

Trao đổi :

1. Muốn anh chị em lương dân đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng của Người, người Công Giáo phải sống thế nào?

2. Trong hoàn cảnh xă hội hiện nay, việc Phúc Am Hóa bằng chứng tá đời sống có những thuận lợi và khó khăn nào về phía khách quan và chủ quan?

3. Do đâu mà đời sống của phần đông người giáo dân Việt nam không đủ lửa, không đủ nóng để lôi kéo anh chị em lương dân sống chung quanh? Phải chấn chỉnh t́nh trạng này bằng cách nào ?

 


 

II. ƯU TIÊN CHO VIỆC RAO GIẢNG

 

2.1 Một lời rao giảng sống động

50. Không phải là thừa khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sự cần thiết của việc giảng dạy. “Làm sao tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? V́ tin là do bởi đă được nghe, c̣n nghe là nhờ việc giảng truyền lời Chúa Kitô” (Rm 10,14-17). Qui luật này ngày xưa đă được Tông Đồ Phaolô đề ra, ngày nay vẫn c̣n nguyên giá trị.

Đúng thế, giảng truyền tức là dùng lời nói công bố một sứ điệp vẫn luôn luôn cần thiết. Chúng tôi thừa biết rằng con người hiện đại đă chán chê ngôn từ nên thường tỏ ra mệt mỏi khi nghe, và c̣n tệ hơn nữa, tỏ ra như đă được miễn nhiễm đối với lời nói. Chúng ta cũng biết ư kiến của nhiều nhà tâm lư học và xă hội học, họ khẳng định rằng con người hiện đại vượt qua lời nói, từ nay vô hiệu và vô ích, và hiện đang sống trong nền văn minh của h́nh ảnh. Những sự kiện đó hẳn phải thúc đẩy chúng ta vận dụng các phương tiện hiện đại của nền văn minh này vào việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vả lại, nhiều cố gắng rất có giá trị đă được thực hiện trong đường hướng này. Chúng tôi chỉ có thể ca ngợi và khuyến khích những cố gắng đó phát triển thêm nữa. Mặc dù ngày nay biết bao nhiêu ngôn từ trống rỗng khiến cho thiên hạ mệt mỏi, và mặc dù có rất nhiều h́nh thức truyền thông khác hợp với thời đại hơn, tuy nhiên không được v́ thế mà coi nhẹ hiệu lực c̣n măi của lời nói hay mất tin tưởng ở lời nói. Lời nói măi măi c̣n hợp với thời đại, nhất là khi nó lại mang quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vậy phương châm của Thánh Phaolô vẫn c̣n phù hợp với thời đại hiện nay: ”Tin là bởi đă được nghe”: chính nhờ Lời đă nghe mà dẫn tới đức tin.
(ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng, 42).

51. Không thể có sự phúc âm hóa thật sự nếu không có việc công khai loan báo Đức Giêsu là Chúa. Chính v́ thế, Công Đồng Vatican II và Huấn Quyền Giáo Hội đă trả lời cho t́nh trạng hiểu biết lẫn lộn và mơ hồ về bản chất thật sự của việc truyền giáo bằng cách luôn nhấn mạnh tới ưu tiên phải dành cho việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô trong hết mọi công tác phúc âm hóa. Thế nên, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đă viết rơ ràng rằng: “không có việc phúc âm hóa thật sự, nếu trong đó người ta chưa công bố tên, giáo lư, cuộc đời, các lời hứa, Nước Trời và mầu nhiệm của Đức Giêsu Na-da-rét, Con Thiên Chúa”. Đây chính là điều mà các thế hệ Kitô hữu đă làm trong bao nhiêu thế kỷ qua.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á,19).

52. Việc loan báo luôn luôn có tính cách ưu tiên trong sứ vụ truyền giáo. Giáo Hội không thể tránh né mệnh lệnh minh nhiên của Đức Kitô. Giáo Hội không thể không cho con người biết Tin Mừng về việc họ được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. “Việc loan báo Tin Mừng cũng luôn luôn bao hàm (…) lời công bố minh bạch rằng, nơi Đức Giêsu Kitô, ơn cứu độ được ban cho mọi người như tặng phẩm do ân sủng và ḷng thương xót của Thiên Chúa”. Tất cả mọi h́nh thức hoạt động truyền giáo đều hướng đến lời công bố ấy, lời công bố mặc khải và dẫn đưa con người vào mầu nhiệm được giữ kín từ trước muôn đời và đă được bày tỏ nơi Đức Kitô (Ep 3,3-9 ; Cl 1,25-29); đó là mầu nhiệm trung tâm trong sứ vụ và đời sống của Giáo Hội, đồng thời tạo nên cột trụ của toàn thể việc loan báo Tin Mừng.

Trong thực tại phức tạp của sứ vụ, lời loan báo đầu tiên có một vai tṛ trọng tâm và không thể thay thế được, bởi v́ lời loan báo ấy đưa con người vào trong “mầu nhiệm t́nh thương của Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người thắt chặt mối tương quan cá vị với Người trong Đức Kitô”, và v́ lời loan báo ấy mở ra con đường cho việc sám hối. Đức tin nẩy sinh từ lời loan báo này và mọi cộng đoàn Giáo Hội bắt nguồn và được nuôi sống từ lời đáp trả cá nhân của mỗi tín hữu trước lời loan báo đó.

Đối tượng của lời loan báo là Đức Kitô chịu đóng đinh, chết và sống lại: Người hoàn thành một cuộc giải phóng trọn vẹn và đích thực khỏi sự thống trị của sự dữ, tội lỗi và sự chết; nơi Người Thiên Chúa ban “sự sống mới”, sự sống thần thiêng và vĩnh cửu. Đó là Tin Mừng làm biến đổi con người và lịch sử con người, đồng thời là Tin Mừng mà mọi dân tộc đều có quyền được nghe biết.

Lời loan báo này phải được thực hiện trong bối cảnh của cuộc sống con người và của các dân tộc đón nhận lời loan báo. Lời loan báo ấy cũng phải được thực hiện trong thái độ yêu thương và trân trọng đối với người nghe, bằng ngôn ngữ cụ thể và thích ứng với các hoàn cảnh. Trong lời loan báo này, Chúa Thánh Thần hoạt động và thiết lập mối dây hiệp thông giữa nhà truyền giáo với các thính giả, đó là điều có thể thực hiện được, tùy mức độ họ cùng nhau hiệp thông với Chúa Cha nhờ Đức Kitô.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 44).

53. Lời loan báo không bao giờ là một hành động cá nhân, v́ được thực hiện trong sự hiệp nhất với toàn thể công đoàn Giáo Hội. Nhà truyền giáo hiện diện và hành động do sự ủy nhiệm và ngay cả khi làm việc một ḿnh, nhà truyền giáo vẫn được nối kết với hoạt động loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội bằnh những mối dây vô h́nh nhưng chặt chẽ. Sớm muộn ǵ các thính giả cũng sẽ thoáng nhận thấy đàng sau nhà truyền giáo là cộng đoàn đă sai phái họ và đang nâng đỡ họ.

Lời loan báo được sinh động nhờ đức tin, đó là yếu tố mang lại cho nhà truyền giáo sự phấn khởi và ḷng hăng say. Để xác định thái độ này, sách Công vụ và thư Thánh Phaolô cũng nói: “… tin tưởng vào Thiên Chúa của chúng tôi mà chúng tôi đă mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua cuộc chiến đấu gian khổ” (1 Tx 2,2). “Anh em hăy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, th́ Thiên Chúa ban Lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hăy cầu xin cho tôi được mạnh dạn nói, như bổn phận tôi phải nói “ (Ep 6,19-20).

Trong việc loan báo Đức Kitô cho những người ngoài Kitô giáo, nhà truyền giáo xác tín rằng, nơi cá nhân cũng như nơi các dân tộc, nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động, đă có sẵn một thái độ mong chờ – cho dù tiềm ẩn – nhận biết chân lư về Thiên Chúa, về con người, về con đường đưa tới sự giải phóng khỏi tội lỗi và sự chết. Ḷng nhiệt thành loan báo Đức Kitô phát xuất từ việc người ta đáp lại sự mong chờ đó một cách xác tín; chính v́ thế, nhà truyền giáo không được nản ḷng, cũng không được khước từ việc làm chứng, ngay cả khi họ được mời gọi để biểu lộ đức tin trong môi trường thù nghịch hoặc dửng dưng. Họ biết rằng Thánh Thần của Chúa Cha nói trong họ, và họ có thể nói lại lời các Tông Đồ: ”Chúng tôi cùng với Thánh Thần, xin làm chứng về tất cả những diều đó” (Cv 5,32). Họ biết ḿnh không loan báo chân lư của con người nhưng là “Lời của Thiên Chúa”, Lời có sức mạnh nội tại và mầu nhiệm (Rm 1,16).
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 45).

 

2.2 Loan báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu

54. Giáo Hội Á Châu càng náo nức với nhiệm vụ loan báo Đức Giêsu Kitô, v́ biết rằng “nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, nơi nhiều cá nhân và nhiều dân tộc đă có sự khao khát, dù không ư thức, được biết sự thật về Thượng Đế, về con người và về cách thế làm sao chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết (…). Giáo Hội rao giảng Tin Mừng chỉ v́ muốn tuân theo mệnh lệnh của Đức Kitô, bởi biết rằng ai cũng có quyền được nghe Tin Mừng của một Thiên Chúa đă sẵn sàng tự mạc khải và tự hiến tế ḿnh cho con người nơi Đức Kitô. Làm chứng cho Đức Giêsu Kitô chính là sự phục vụ cao đẹp nhất mà Giáo Hội có thể cống hiến cho các dân tộc tại Châu Á, v́ nó đáp ứng nguyện vọng sâu xa của họ là t́m được Đấng Tuyệt Đối, đồng thời nó cho biết những sự thật và những giá trị cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người.

Ư thức sâu xa về sự phức tạp do có quá nhiều t́nh huống khác nhau tại Châu Á, và v́ muốn “sống theo sự thật và trong t́nh bác ái” (Ep 4,15), nên Giáo Hội luôn công bố Tin Mừng với sự tôn trọng và quư mến đối với những người nghe. Loan báo mà vẫn tôn trọng các quyền lương tâm sẽ không xâm phạm tự do của con người, v́ đức tin luôn luôn đ̣i phía cá nhân phải có sự hưởng ứng tự do tự nguyện. Tuy nhiên, tôn trọng không có nghĩa là không được phép công khai loan báo Tin Mừng một cách nguyên vẹn. Nhất là trong bối cảnh có quá nhiều nền văn hóa và tôn giáo tại Châu Á, cần phải nói rơ rằng “ không bao giờ v́ tôn trọng và yêu quư các tôn giáo ấy, cũng chẳng bao giờ v́ tính phức tạp của các vấn đề được đặt ra mà yêu cầu Giáo Hội rút lui không công bố Đức Giêsu Kitô cho những người không phải là Kitô hữu. Năm 1986 trong lúc viếng thăm An Độ, tôi đă có dịp nói rơ: “Con đường Giáo Hội đến với các tôn giáo khác là con đường kính trọng thật sự. Một sự kính trọng mang hai ư nghĩa: một đàng tôn trọng con người trong hành tŕnh t́m kiếm những giải đáp cho các vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, đàng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người. Thật vậy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nh́n nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các xă hội, văn hóa và tôn giáo Á Châu, v́ qua đó Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu đón nhận sự sống sung măn nơi Đức Kitô.

Tuy nhiên, trong những cuộc tham khảo diễn ra trước Thượng Hội Đồng, nhiều giám mục Á Châu đă nêu lên những khó khăn khi công bố Đức Giêsu là vị Cứu Tinh duy nhất. Trong Hội Nghị, các vị cũng mô tả t́nh h́nh ấy như sau:”Một số tín đồ của các tôn giáo lớn tại Á Châu không gặp vấn đề ǵ khi chấp nhận Đức Giêsu là hiện thân của Thần Minh hay Đấng Tuyệt Đối, hoặc như một Đấng “giác ngộ”. Nhưng thật khó cho họ phải coi Ngài là hiện thân duy nhất của Thần Minh. Thật ra, nỗ lực chia sẻ ơn đức tin đối với Đức Giêsu như là vị Cứu Tinh duy nhất đă đụng phải những khó khăn về triết học, văn hóa và thần học, nhất là nh́n từ những niềm tin có trong các tôn giáo lớn của Châu Á, vốn quyện rất chặt với các giá trị văn hóa và các thế giới quan riêng biệt.

Theo ư kiến của các nghị phụ Thượng Hội Đồng những khó khăn ấy c̣n được tăng thêm do sự kiện Đức Giêsu thường được cho là xa lạ với người Á Châu. Thật là nghịch lư khi đại đa số người Á Châu có khuynh hướng coi Đức Giêsu, một người sinh ra trên chính mảnh đất Á Châu, là một người Tây Phương hơn là người Á Châu. Tin Mừng được loan báo bởi các nhà truyền giáo Tây Phương hẳn là không thể không bị ảnh hưởng bởi những nền văn hóa xuất xứ của họ. Các nghị phụ nh́n nhận đây là một sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền giáo tại Châu Á. Đồng thời các ngài tận dụng cơ hội này để “bày tỏ một cách đặc biệt sự biết ơn của ḿnh đối với các nhà truyền giáo, nam lẫn nữ, tu sĩ lẫn giáo dân, ngoại quốc lẫn bản địa, đă mang sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn đức tin đến. Các ngài cũng muốn có lời đặc biệt để bày tỏ ḷng biết ơn với tất cả các Giáo Hội đă gửi và c̣n tiếp tục gửi các nhà truyền giáo đến Châu Á. Các nhà rao giảng Tin Mừng có thể t́m được can đảm nhờ vào kinh nghiệm của thánh Phaolô, người đă tham gia đối thoại với các giá trị triết học, văn hóa và tôn giáo của người nghe (Cv 14,13-17; 17,22-31). Ngay cả các Công Đồng chung của Giáo Hội từng đưa ra những giáo lư có sức ràng buộc Giáo Hội cũng phải sử dụng các tài nguyên ngữ học, triết học và văn hóa có sẵn để làm việc ấy. Thế là, các tài nguyên này đă trở thành một tài sản chung của cả Giáo Hội, được dùng để diễn tả giáo lư về Đức Kitô một cách thích hợp và mang tính phổ quát. Chúng là một phần trong di sản đức tin cần phải thu dụng lấy rồi chia sẻ lại mỗi khi tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau. Thật là một thách đố vượt bậc khi t́m cách loan báo Đức Giêsu sao cho các dân tộc Á Châu có thể nhận ra Ngài, mà vẫn trung thành được cả với giáo lư thần học của Giáo Hội lẫn gốc gác Á Châu của ḿnh.

Muốn giới thiệu Đức Giêsu Kitô là Vị Cứu Tinh duy nhất, chúng ta cần phải theo một phương pháp sư phạm, đưa người ta dần dần tới chỗ thủ đắc trọn vẹn mầu nhiệm ấy. Cụ thể hơn, phúc âm hóa sơ khởi cho những người ngoài Kitô giáo và tiếp tục loan báo Đức Giêsu cho những người đă tin là hai công việc phải được tiến hành khác nhau. Khi loan báo Đức Giêsu Kitô lần đầu chẳng hạn, “phải giới thiệu Đức Giêsu Kitô như Đấng thỏa măn những khát vọng sâu xa của con người, được diễn tả qua các thần thoại và văn chương dân gian của các dân tộc Á Châu”. Nói chung, nên dành ưu tiên cho phương ph1p kể chuyện gần gũi với các h́nh thức văn hóa của Châu Á. Thật ra, việc loan báo Đức Giêsu Kitô có thể đạt hiệu quả nhất với phương pháp kể lại cuộc đời Ngài, như các sách Tin Mừng đă làm.

Thượng Hội Đồng c̣n nhắc nhở việc giảng dạy giáo lư tiếp theo sau đó nên theo “phương pháp sư phạm gợi ư, nghĩa là vận dụng các câu chuyện, dụ ngôn và biểu tượng, là những điều hết sức đặc thù trong phương pháp giảng dạy của người Á Châu. Chính Đức Giêsu trong khi thi hành sứ vụ cũng đề cao giá trị của việc tiếp xúc cá nhân. Việc này đ̣i hỏi người rao giảng Tin Mừng phải quan tâm tới ḥan cảnh của người nghe, để có thể loan báo cho họ cách phù hợp với tŕnh độ trưởng thành của họ, theo một h́nh thức và dùng một ngôn ngữ thích hợp. Nh́n trong viễn tượng ấy, đă nhiều lần các nghị phụ nhấn mạnh rằng phải rao giảng Tin Mừng bằng cách nào đánh động được cảm quan của các dân tộc Á Châu, giới thiệu cho họ những h́nh ảnh nào về Đức Giêsu mà tâm trí cũng như văn hóa Á Châu có thể lĩnh hội được, nhưng đồng thời vẫn phải trung thành với Kinh Thánh và Truyền Thống. Chẳng hạn như giới thiệu “Đức Giêsu Kitô là Thầy Dạy sự khôn ngoan, là Lương Y chữa lành bệnh, là Vị Giải Phóng, là nhà Hướng Dẫn tâm linh, là Đấng Giác Ngộ, là Bạn Hữu thân t́nh của người nghèo, là người Sa-ma-ri nhân hậu, là Mục Tử tốt lành, là Người Sống tùng phục”. Có thể giới thiệu Đức Giêsu như Sự Khôn Ngoan nhập thể của Thiên Chúa sẽ làm cho những “hạt giống” của sự khôn ngoan vốn đă có nơi cuộc sống, tôn giáo và dân tộc Á Châu được sinh hoa kết trái. Nói với những dân tộc đang chịu đựng quá nhiều đau khổ tại Châu Á, tốt nhất nên loan báo Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh “có thể mang lại ư nghĩa cho những người đang phải chịu đựng những sự đau khổ không thể giải thích được”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 20).

 

2.3 Những trở ngại trong việc Loan báo

 

55. Từ phía Kitô hữu

Trở ngại bên trong :

a. Có thể cuộc sống Kitô hữu biểu lộ một chứng tá không tương hợp với đức tin ḿnh sống, v́ thế có khoảng cách giữa lời nói và việc làm, giữa sứ điệp Kitô giáo và cách sống của người ấy.

b. Kitô hữu có thể thiếu sót trong việc loan truyền Phúc Am “do trễ nải, ngại ngùng, xấu hổ – điều mà thánh Phaolô từng gọi là “hổ ngươi về Phúc Am” – hoặc do những ư nghĩ sai lạc “về vấn đề chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa.”

c. Kitô hữu không quư, không trọng các tín đồ cũng như các truyền thống tôn giáo khác th́ khó có thể loan truyền Tin Mừng cho họ được.

d. Nơi một số Kitô hữu, có một thái độ tự tôn về mặt văn hóa. Điều đó có thể đưa đến việc cho rằng sứ điệp Kitô giáo lại gắn liền với một nền văn hóa đặc loại cần phải áp đặt cho những kẻ trở lại.
(Hội Đồng Ṭa Thánh liên lạc với các tôn giáo, Đối Thoại và Rao Truyền, 73).

 

56. Từ bên ngoài cộng đồng Kitô giáo

Trở ngại bên ngoài :

a. Gánh nặng lịch sử làm cho việc rao truyền khó khăn hơn, v́ lắm khi một vài phương pháp truyền giáo được áp dụng thưở trước đă dấy lên nhiều nghi ngờ và lo sợ nơi những tín đồ các tôn giáo khác.

b. Các tín đồ các tôn giáo khác có thể sợ rằng công cuộc truyền bá Phúc Am của Giáo Hội có thể làm tiêu tan tôn giáo văn hóa của họ.

c. Một quan điểm khác về nhân quyền hoặc việc không thực thi nhân quyền có thể làm tổn thương sự tự do tôn giáo.

d. Việc bắt bớ có thể làm cho việc rao truyền đặc biệt khó khăn, kể cả có lúc không thực hiện được. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Thánh giá là nguồn suối sự sống “Máu các vị tử đạo là hạt giống Kitô hữu.”

e. Việc đồng hóa một tôn giáo cá biệt với nền văn hóa quốc gia, hoặc với một hệ thống chính trị, tạo ra một bầu khí tương dung.

f. Trong một vài nơi, luật cấm trở lại đạo, hoặc những người đă trở lại theo Kitô giáo gặp phải những vấn đề xă hội nghiêm trọng như bị tẩy chay ra khỏi cộng đồng tôn giáo gốc, khỏi môi trường xă hội hoặc khung cảnh văn hóa của họ.

g. Trong một bối cảnh đa nguyên tôn giáo, nguy cơ của thái độ thờ ơ, tương đối, chắp vá bừa băi về mặt tôn giáo, tạo nên những trở ngại cho việc rao truyền Phúc Am.
(Hội Đồng Ṭa Thánh liên lạc với các tôn giáo, Đối Thoại và Rao Truyền, 74).

 

Trao đổi:

1. Thế nào là loan báo Tin Mừng tại Việt Nam?

2. Làm thế nào để giáo dân Việt Nam quan tâm đến việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người cho những người không Công Giáo sống chung quanh?

3. Trong xă hội ta hiện nay, việc loan báo Tin Mừng gặp phải những khó khăn nào từ bên trong và những khó khăn nào từ bên ngoài? Phải làm ǵ để những khó khăn ấy mỗi ngày mỗi giảm bớt?

 


 

III. HIỆP THÔNG ĐỂ TRUYỀN GIÁO

 

3.1 Hiệp thông vừa là nguồn mạch (gốc) vừa là kết quả (hoa trái) của truyền giáo :

57. Chúng ta lấy lại h́nh ảnh cây nho và cành nho trong Kinh Thánh. H́nh ảnh này giúp chúng ta nhận định về tính dồi dào và sức sống. Được tháp nhập vào thân nho, nhận sức sống từ thân cây, nên các cành nho được kêu gọi trổ sinh hoa trái (Ga 15,5). Đơm hoa kết trái là một đ̣i hỏi cốt yếu trong đời sống của người Kitô hữu cũng như của Giáo Hội. Ai không sinh hoa trái là không sống trong sự hiệp thông. Hiệp thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau, là điều kiện không thể thiếu để sinh hoa trái (= loan báo Tin Mừng).

Hiệp thông và sứ vụ truyền giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai giải thích và bao hàm nhau, đến độ sự hiệp thông cho thấy nguồn gốc và đồng thời cả kết quả của việc truyền giáo: Hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Về phần ḿnh, Giáo Hội ư thức rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đă đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng ḿnh mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đă lănh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo vào ḷng người tín hữu t́nh mến của Chúa Giêsu Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ư định của Đức Kitô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ …. của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đă đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Kitô Hữu Giáo Dân, 32).

MichelAnge

 

3.2 Hiệp thông theo Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á

 

 

Tông huấn dành cả chương V tŕnh bày về “Hiệp thông và đối thoại để truyền giáo”. Tông Huấn không khai triển ư niệm Hiệp thông, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp Thông và những ǵ phải làm để Hội Thánh tại Châu Á, nơi có nhiều dân tộc , nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo.

 

1/ Tầm quan trọng của Hội Thánh tại Châu Á

Tông Huấn nhắc lại ư định của T́nh yêu Thiên Chúa muốn Giáo Hội là bí tích cứu độ nhân loại, nên Giáo Hội không thể chỉ là tổ chức xă hội hoặc cơ quan cứu trợ nhân đạo, nhưng Giáo Hội phải trở thành nơi ưu việt để Thiên Chúa và loài người gặp gỡ nhau. Cho nên việc Hiệp Thông giữa Chúa Kitô và tất cả những người đă được thanh tẩy là chính tâm điểm của mầu nhiệm Giáo Hội. Do đó mục đích trước nhất của Giáo Hội là trở thành bí tích hợp nhất thân mật giữa con người với Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ sự hợp nhất ấy mà mọi người được hợp nhất vơi nhau, nên Giáo Hội c̣n là bí tích hợp nhất giữa mọi người với nhau nữa. Sống giữa nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo khác nhau tại Châu Á, Giáo Hội phải là “Giáo Hội hiệp thông”. Đây là điều tối quan trọng, bởi v́ có Hiệp Thông đích thực th́ Giáo Hội mới là bằng chứng để các dân tộc Á Châu thấy mà tin tưởng (số 24).

58. Thể theo ư định muôn đời của Chúa Cha, Giáo Hội đă được báo trước từ thưở ban sơ của thế giới, rồi được chuẩn bị trong Cựu ước, được Đức Kitô thành lập và được Chúa Thánh Thần giới thiệu cho thế giới trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội ấy “đang tiến bước trong cuộc lữ hành của ḿnh giữa bao bách hại của thế giới và giữa bao an ủi của Thiên Chúa, đang vẫn nỗ lực trở nên hoàn thiện trong vinh quang thiên quốc. V́ Thiên Chúa đă muốn “toàn thể nhân loại trở thành một dân của Chúa, làm nên một thân thể của Đức Kitô và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nên Giáo Hội trong thế giới này chính là “kế hoạch yêu thương nhân loại của Thiên Chúa mà con người có thể trông thấy, chính là bí tích của sự cứu độ. Bởi đó không thể hiểu Giáo Hội chỉ như một tổ chức xă hội hay cơ quan phục vụ sự an sinh cho loài người. Dù cưu mang trong ḿnh nhiều con người tội lỗi, Giáo Hội cũng phải được chúng ta coi là nơi ưu tiên cho Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, là nơi Thiên Chúa quyết định mạc khải đời sống nội tâm nhiệm mầu của ḿnh và thực hiện chương tŕnh cứu độ thế giới.

Trọng tâm của mầu nhiệm Giáo Hội chính là mối hiệp thông nối kết Đức Kitô Lang Quân với mọi người đă chịu phép Rửa. Nhờ sự hiệp thông sống động và có khả năng đem lại sự sống ấy, “các Kitô hữu không c̣n thuộc về ḿnh nữa, mà đă trở thành của Chúa.” Một khi kết hợp với Chúa Con trong mối dây yêu thương của Thánh Thần, các Kitô hữu cũng kết hợp với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này mà các Kitô hữu được hiệp thông với nhau qua Đức Kitô trong Thánh Thần. Nếu thế, mục tiêu trước tiên của Giáo Hội là làm bí tích diễn tả sự kết hiệp nội tâm của con người với Thiên Chúa và, v́ sự hiệp thông giữa con người với nhau xuất phát từ sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa, Giáo Hội cũng là bí tích diễn tả sự thống nhất của nhân loại.

Một đ̣i hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa th́ phải sinh hoa kết quả:”Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Như thế, thật là đúng khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, th́ ấy là người đă không sống trong sự hiệp thông: ”Cành nào không sinh hoa trái th́ Cha Thầy sẽ tỉa đi” (Ga 15,2). Hiệp thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả: và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế th́ hiệp thông và tuyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông”
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

 

2/ Những ǵ phải làm để Hiệp thông tại Châu Á

 

a. Hiệp thông với Thiên Chúa

Muốn Hiệp thông với Thiên Chúa phải trung thành với việc t́m hiểu và lắng nghe Lời Chúa, phải cầu nguyện và chiêm niệm, phải cử hành các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, phải nêu gương sống hiệp thông thực sự cũng như sống yêu thương liêm chính. Người dân Á Châu rất dễ tỏ ḷng kính trọng và sẵn sàng nghe theo những người đạo đức thật sự. Do đó những việc như cầu nguyện, ăn chay, sống khổ hạnh, từ bỏ, khiêm nhường, thanh bạch, trầm lặng …. thường được người dân Á Châu rất quí mến. Tông Huấn nhắc nhở rằng: phải có lửa th́ mới chia lửa cho người khác được, nghĩa là phải có mới cho được. Do đó Kitô hữu tại Châu Á phải sống theo một linh đạo truyền giáo trong đó cầu nguyện và chiêm niệm là trọng tâm (số 23).

59. Cộng đoàn Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm với Thiên Chúa, kinh nghiệm phát xuất từ một ḷng tin sống động, th́ cộng đoàn ấy càng đáng tin cậy khi loan báo cho người khác Nước Chúa đă hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Điều này sẽ xảy ra khi họ trung thành lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chiêm niệm, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, và nêu gương hiệp thông thật sự trong đời sống cũng như có đức ái trọn vẹn. Giáo Hội địa phương phải thiết tha với việc chiêm ngắm Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, đồng thời phải không ngừng nỗ lực cho có sự kết hợp mật thiết hơn với Ngài. Sứ mạng ấy là hoạt động với tinh thần chiêm niệm và chiêm niệm bằng hoạt động. Bởi đó một nhà truyền giáo không có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong kinh nguyện và chiêm niệm sẽ ảnh hưởng rất ít về mặt thiêng liêng hoặc sẽ ít thành công trong việc truyền giáo. Đây là một kết luận rút ra từ kinh nghiệm thi hành tác vụ linh mục của tôi (….): Tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào đời sống chiêm niệm. Tại Châu Á, quê hương của các tôn giáo lớn qua đó không những cá nhân mà cả dân tộc bày tỏ ḷng khát khao thế giới thần linh, Giáo Hội được kêu gọi hăy trở thành một Giáo Hội cầu nguyện, hết sức thiêng liêng, cả khi dấn thân vào các bận tâm nhân bản và xă hội trước mắt. Mọi Kitô hữu cần phải sống một linh đạo truyền giáo lấy cầu nguyện và chiêm niệm làm trọng tâm.

Tại Châu Á, một người có tôn giáo thật sự sẽ sớm được kính trọng và được hưởng ứng. Cầu nguyện, chay tịnh và khổ hạnh dưới nhiều h́nh thức khác nhau là những điều rất được trân trọng. Từ bi, siêu thoát, khiêm nhường, giản dị và thinh lặng là những điều mà tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng coi là những giá trị lớn. Các nghị phụ Thượng Hội Đồng lưu ư rằng muốn việc cầu nuyện không trở nên xa lạ với sự thăng tiến con người, “phải liên kết công tác xây dựng công lư, bác ái và từ thiện với một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm thật sự, và linh đạo này cũng phải là cội nguồn sinh ra mọi công tác phúc âm hóa”.

Xác tín tầm quan trọng của các chứng nhân chính hiệu trong công cuộc phúc âm hóa tại Châu Á, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đă tuyên bố : ”Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được công bố bởi những người được thúc đẩy và linh hứng bởi t́nh thương Chúa Cha dành cho con cái Ngài, biểu lộ qua con người Giêsu Kitô. Việc công bố Tin Mừng là một sứ mạng đ̣i phải có những người thánh thiện làm cho người khác nhận biết và yêu mến Đấng Cứu Thế ấy qua chính đời sống ḿnh. Ta chỉ có thể đốt lửa bởi một vật ǵ đó đang cháy. Thế nên, Tin Mừng chỉ có thể được loan báo một cách thành công tại Châu Á, khi các Giám Mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đang rạo rực t́nh yêu đối với Đức Kitô, khao khát làm cho Ngài được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến và theo đuổi nhiều hơn. Kitô hữu nào giới thiệu Đức Kitô th́ phải đưa sứ điệp mà ḿnh sắp công bố vào trong đời sống của ḿnh.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

 

b. Hiệp thông trong nội bộ Giáo Hội.

- Các chủ chăn trong Giáo Hội.
- Các Giáo Hội địa phương, các giáo phận.
- Các giáo xứ.
- Các cộng đoàn nhỏ, các phong trào canh tân..

60. Quy tụ chung quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô, cùng cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám mục trong hội Nghị đặc biệt dành cho Châu Á lần này đă trở thành hiện thân của sự hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Hội địa phương vô cùng khác biệt được lănh đạo bằng đức ái. (….) Thật vậy, chính khi đặt ḿnh trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội, người ta mới thấy rơ hơn thẩm quyền của Đấng kế vị thánh Phêrô mang tính phổ quát, không phải một quyền hành mang tính pháp lư trên các Giáo Hội địa phương mà là một sự trổi vượt mang tính mục vụ nhằm xây dựng sự hiệp nhất trong đức tin và đời sống toàn thể Dân Chúa. Ư thức rằng “trong vai tṛ Đấng kế vị Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ hết sức độc đáo là bảo đảm và đẩy mạnh sự hiệp nhất trong Giáo Hội.

61. Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng vững vàng bằng cách minh chứng tinh thần hiệp thông với Giáo Hội, v́ đây chính là bản chất làm cho cộng đoàn ấy là Giáo Hội . Các nghị phụ Thượng Hội Đồng đă quyết định mô tả giáo phận là sự hiệp thông của các cộng đoàn chung quanh vị mục tử ; trong đó giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân tham gia cuộc “đối thoại bằng đời sống và bằng tâm hồn”, cuộc đối thoại được Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Giáo phận là nơi ưu tiên cho ta thấy cụ thể h́nh ảnh sự hiệp thông của các cộng đoàn giữa bao thực tế xă hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa, và kinh tế vô cùng phức tạp của Châu Á. Nói tới sự hiệp thông Giáo Hội là ngụ ư rằng mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành cái mà các nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là “Giáo Hội tham gia” hay đúng hơn là “Giáo hội mà trong đó mọi người có phần và phải góp phần”, tức là một Giáo Hội mà trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của ḿnh và thi hành đúng vai tṛ riêng của ḿnh. Muốn xây dựng cộng đoàn “hiệp thông để truyền giáo” và “truyền giáo bằng hiệp thông”, người ta cần phải nh́n nhận, phát triển và sử dụng hiệu quả đoàn sủng của mỗi thành phần trong Giáo Hội. Các riêng, cần cổ vơ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các người tận hiến vào việc lập kế hoạch mục vụ và quyết định, thông qua các cơ chế mang tính tham gia như Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Nghị Giáo Xứ.

62. Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu qui tụ lại để được lớn lên trong đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội. Thế nên, các nghị phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các vị chủ chăn hăy nghĩ ra những phương cách mới mẻ và hữu hiệu để chăn dắt các tín hữu, làm sao cho mỗi người, nhất là người nghèo, cảm nhận được ḿnh là một thành phần thực thụ của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa. Cùng với giáo dân lập kế hoạch mục vụ, điều đó phải trở thành một nét sinh hoạt b́nh thường của mọi giáo xứ. Thượng Hội Đồng lưu ư đặc biệt hơn nữa giới trẻ là thành phần mà “giáo xứ cần phải tạo nhiều điều kiện hơn để họ hiệp thông và cộng tác …” Không ai bị loại trừ một cách tiên thiên không cho tham gia trọn vẹn vào sinh hoạt và sứ mạng của giáo xứ chỉ v́ gốc gác xă hội, kinh tế, chính trị, văn hóa hay giáo dục. Nếu mỗi môn đệ Đức Kitô có điều ǵ đó để cống hiến cho cộng đoàn, th́ cộng đoàn cũng phải tỏ ra sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng sự cống hiến ấy.

63. Trong bối cảnh ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của ḿnh, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới giá trị của các Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông cộng tác trong các giáo xứ và giáo phận, và như một lực lượng thật sự cho công cuộc phúc âm hóa. Những tập thể nhỏ bé này sẽ giúp các tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu đầu tiên (Cv 2,44-47 ; 4,32-35). Các tập thể này c̣n giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xă hội mới, biểu hiện một nền văn minh t́nh thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Châu Á, nơi nào có thể được, hăy coi các Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản ấy như một nét tích cực trong công tác phúc âm hóa của Giáo Hội. Nhưng các cộng đoàn ấy chỉ thực sự hữu hiệu, khi biết hiệp thông với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu, hiệp thông từ trong tâm hồn với các vị chủ chăn và Huấn Quyền của Giáo Hội, sẵn sàng mở rộng trong tinh thần truyền giáo, không rơi vào t́nh trạng cô lập hay triển khai theo một ư thức hệ nào như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đă viết trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 58.

64. Thượng Hội Đồng cũng nh́n nhận vai tṛ các Phong Trào Canh Tân trong việc xây dựng sự hiệp thông, tạo các cơ hội cho người ta kinh nghiệm Thiên Chúa một cách thâm sâu hơn qua đức tin và các bí tích, và cổ vơ việc hoán cải đời sống. Những ai tham gia các hiệp hội và các phong trào ấy hăy góp tay xây dựng Giáo Hội địa phương, không coi ḿnh như những tổ chức thay thế các cơ chế giáo phận và sinh hoạt giáo xứ. Sự hiệp thông trong Giáo Hội sẽ trở nên vững chắc hơn, khi các người lănh đạo các phong trào ấy tại địa phương cùng làm việc chung với các vị chủ chăn trong tinh thần bác ái, v́ lợi ích của mọi người (1 Cor 1,13).
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 25).

 

c. Sự liên đới giữa các Giáo Hội.

65. Sự hiệp thông nội bộ trên đây sẽ giúp góp phần xây dựng sự liên đới giữa các Giáo Hội địa phương. Quan tâm tới các nhu cầu tại chỗ là điều hợp t́nh hợp lư và cần thiết, nhưng v́ sự hiệp thông, các Giáo Hội địa phương vẫn phải cởi mở tiếp nhận nhau và cộntg tác với nhau, để dù dị biệt, các Giáo Hội ấy vẫn cho thấy và bảo vệ được mối hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu. Muốn hiệp thông th́ phải hiểu nhau và có sự phối hợp trong việc thi hành sứ mạng, mà vẫn không làm hại tới sự tự trị và quyền lợi của mỗi Giáo Hội đúng theo truyền thống của Giáo Hội ấy về thần học, phụng vụ và thiêng liêng. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy sự hiệp thông giữa các Giáo Hội Á Châu đă bị tổn thương như thế nào do những chia rẽ giữa các Giáo Hội ấy. Qua nhiều thế kỷ, quan hệ giữa các Giáo Hội khác nhau về quyền tài phán, về truyền thống phụng vụ và cách truyền giáo đă có lúc trở nên căng thẳng và khó khăn. Các Giám mục có mặt tại Thượng Hội Đồng này đă nh́n nhận rằng, thậm chí cho tới hôm nay trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa phương ở Châu Á thỉnh thoảng vẫn xảy ra những chia rẽ đáng tiếc, thường đi đôi với những sự khác nhau về nghi thức, ngôn ngữ, chủng tộc, giai cấp và ư thức hệ. Một số vết thương đă phần nào được chữa khỏi, nhưng vẫn chưa được lành hoàn toàn. Ư thức rằng chỗ nào yếu kém trong sự hiệp thông th́ lời chứng và nỗ lực truyền giáo của Giáo Hội ở chỗ đó bị thiệt hại, các nghị phụ đă đề nghị những bước cụ thể để củng cố lại quan hệ giữa các Giáo Hội Á Châu. Ngoài những lời nói ủng hộ và khuyến khích thiêng liêng cần thiết, các nghị phụ c̣n đề nghị một sự phân phối linh mục cân bằng hơn, liên đới trong vấn đề tài chính một cách hữu hiệu hơn, trao đổi văn hóa và thần học, gia tăng các cơ hội cộng tác giữa các giáo phận với nhau.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 26).

 

d. Sự liên đới với các tôn giáo

66. Dựa trên Thần học của sự hiệp thông, Công Đồng Vatican II đă mô tả Giáo Hội là Dân Chúa đang hành hương, một dân mà không dân nào không có liên hệ cách này hay cách khác. Trên cơ sở đó, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh mối liên hệ nhiệm mầu giữa Giáo Hội và tín đồ các tôn giáo khác của Châu Á, ghi nhận rằng các tín đồ ấy có liên hệ (với Giáo Hội) bằng nhiều cách và ở nhiều mức độ khác nhau. Giữa đông đảo các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau như thế, “càng thấy sống đời sống Giáo Hội như một sự hiệp thông quan trọng thế nào”. Thật ra, công tác phục vụ sự hiệp nhất do Giáo Hội thực hiện có một tầm quan trọng đặc biệt tại Châu Á, v́ tại đây có quá nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt về chủng tộc, xă hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo gây ra. Chính trong bối cảnh ấy các Giáo Hội địa phương ở Châu Á, hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô, cần cổ vũ sự hiệp thông nhiều hơn nữa trong tâm trí cũng như trong tâm hồn bằng sự cộng tác mật thiết hơn giữa các Giáo Hội với nhau. Một điều cũng quan trọng không kém đối với sứ mạng phúc âm hóa của họ là xây dựng các quan hệ với các Giáo Hội và các cộng đồng Kitô khác, cũng như với tín đồ các tôn giáo khác. Bởi đó, Thượng Hội Đồng nhắc lại sự dấn thân của Giáo Hội Á Châu với công tác cải thiện các quan hệ đại kết cũng như sự đối thoại giữa các tôn giáo, v́ nh́n nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, nỡ lực ḥa giải, thiết lập các dây liên đới, xúc tiến sự đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và gầy dựng sự tin tưởng giữa các dân tộc, đó chính là những công việc vô cùng quan trọng để Giáo Hội thi hành sứ mạng phúc âm hóa trên châu lục này. Muốn vậy, toàn thể cộng đồng Công Giáo phải thành thật xét ḿnh, phải can đảm ḥa giải và tiếp tục dấn thân đối thoại. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba này, ai cũng thấy rơ là muốn có khả năng phúc âm hóa, Giáo Hội phải ra sức phục vụ cho sự nghiệp hiệp nhất ấy trong mọi chiều kích. Hiệp thông và truyền giáo phải đi đôi với nhau.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 24).

 

Trao đổi:

1. Khi nói tới Hiệp Thông, người Công giáo phải hiểu như thế nào? (Ai hiệp thông với ai? hiệp thông trong những lănh vực nào, trên nền tảng nào?)

2. Tại sao Hiệp thông và Truyền giáo phải đi đôi với nhau? Hiệp thông mà không dẫn tới Truyền Giáo có thật sự là Hiệp Thông không? và Truyền Giáo mà không có Hiệp Thông th́ sẽ như thế nào?

3. Người ta nói “Giáo Hội Việt Nam chưa thể hiện rơ nét Tính Hiệp Thông”, các bạn nghĩ ǵ về nhận định ấy? Giáo Hội chúng ta c̣n yếu kém ở mặt nào? và cần phải đẩy mạnh Hiệp Thông với người ở trong và với người ở ngoài (Giáo Hội) như thế nào?

 

 


Mời đọc tiếp

1 2 3 4 5a 5b 6 7

Xem các bài viết khác trong Nguyễn Văn Nội, Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.