DẪN NHẬP VÀO VĂN HOÁ GIA Đ̀NH VIỆT NAM

1 2 3 4 5 6 7 8 9

MichelAnge

 

Bài 7 :

 

Những tổ chức mới đang xâm nhập và gây xung đột

 

 

 

Sánh với bức tranh tổ chức văn hoá gia đ́nh mà Đào Duy Anh đă phác họa vào năm 1938, những ǵ đă thay đổi tính đến ngày nay trong văn hoá gia đ́nh Việt Nam ?

Giai đoạn này, lịch sử nước ta có nhiều xáo trộn về chính trị, kinh tế, văn hoá và xă hội. Các phong trào yêu nước kháng chiến nổi lên, mạnh nhất là đảng Cộng sản với Nguyễn Ái Quốc từ năm 1927 và Quốc Dân đảng với Nguyễn Thái Học từ năm 1930. Năm 1954 hiệp định Genève chia Việt Nam làm hai , miền Bắc với chính thể độc đảng cộng sản, miền Nam với chế độ quốc gia tự do. Khoảng 800 000 người di cư từ Bắc vào Nam. Năm 1975 quân đội cộng sản miền Bắc thắng trận và thống nhất đất nước trong chính thể độc đảng cộng sản khép kín. Khoảng hai triệu người Việt Nam tự do bỏ nước trốn ra ngoại quốc, đến Mỹ châu, Âu châu và Úc châu. Năm 1986 một chính sách mới được quyết định để hé mở cánh cửa tự do và kinh tế thị trường. Trong suốt thời kỳ này, nhiều thay đổi lớn đă xâm nhập vào tổ chức văn hoá gia đ́nh Việt Nam. Những thay đổi này thực ra chỉ là sự bành trướng và khuếch trương những thay đổi đă được Đào Duy Anh ghi nhận tử 1938. Tất cả đều do sức đảy của hai tư tưởng chủ lực là tự do và b́nh đẳng của Văn hoá Âu Mỷ Thiên Chúa giáo và đặc biệt qua hai chi nhánh áp dụng của nó, là chính thể cộng sản và kinh tế thị trường.

71. Dưới chính thể cộng sản, hai thay đổi lớn về tổ chức văn hoá gia đ́nh ở Việt Nam đă được xử dụng. Thay đổi thứ nhất là sự xen lấn quan trọng của Nhà nước vào việc chọn lựa và tổ chức hôn nhân. Trong tập nghiên cứu ‘Hôn lễ xưa & nay ở Việt Nam’, hai nhà nghiên cứu Lê Như Hoa và Bùi Quang Thắng ghi nhận rằng : ‘Có lễ phải từ sau 1945, khi cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến 9 năm (chống thực dân Pháp) th́ mới có sự đột biến trong quan niệm - nếp nghĩ của nhiều người dân Việt Nam về hôn nhân. Thời ấy, cuộc kháng chiến đày gian khổ nhưng hào hùng ấy đă chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống của toàn dân tộc, dường như nó thấm vào tất cả mọi lănh vực của đời sống xă hội. (Đến nỗi đă có nhiều nhà nghiên cứu đề nghị phải gọi tên văn hoá thời ấy là văn hoá kháng chiến). Hôn nhân, hôn lễ thời kỳ ấy cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của ‘văn hoá kháng chiến’ ấy. Người ta yêu nhau và cưới nhau không phân biệt giầu nghèo, sang hèn; thậm chí không hiếm người cưới nhau không cần đến sự đồng ư của cha mẹ hai bên (hoặc là tự tim hiểu rồi báo với tổ chức hoặc tổ chức, cấp trên môi giới rồi tổ chức cho họ,...). Thực ra, mô h́nh hôn nhân này lúc đầu chỉ thực hiện ở những người tham gia kháng chiến hay ở chiến khu, nhưng sau này nó đă lan tỏa rộng khắp ở phạm vi toàn xă hội. (Nhất là ở khu vực miền Bắc Việt Nam, nhiều người c̣n coi đó là ‘mode ‘ của thời bấy giờ). Xu hướng này c̣n được đặc biệt nhân rộng trong những năm từ 1954 đến 1986 »[1].

Dưới chính thể cộng sản, hai thay đổi lớn về tổ chức văn hoá gia đ́nh ở Việt Nam đă được xử dụng. Thay đổi thứ nhất là sự xen lấn quan trọng của Nhà nước vào việc chọn lựa và tổ chức hôn nhân...

Thay đổi thứ hai là ‘sự đơn giản hoá lễ nghi’ đến nỗi thiếu cái bản sắc văn hoá hôn nhân của người Việt.

Trong luận án phó tiến sỹ xă hội hoc, nhà nghiên cứu Khuất Thu Hồng đă nhận định về thực trạng hôn nhân trong chế độ Cộng Hoà Xă Hộ Chủ Nghĩa Việt Nam thời kỳ 1954-1986 như sau : ‘Về mặt lư thuyết, các cá nhân có toàn quyền trong việc lựa chọn và quyết định ai. Gia đ́nh đă không c̣n giữ vị trí độc tôntrong việc hôn nhân của các thành viên của ḿnh. Bên cạnh gia đ́nh, lúc này đă có thêm một nhân vật mới nữa, đó là cơ quan Nhà Nước và các đoàn thể. Không chỉ bằng giao dục và tuyên truyền về t́nh yêu, hôn nhân và gia đ́nh trong xă hội Xă hội Chủ nghĩa, trong nhiều trường hợp, cơ quan đoàn thể c̣n trực tiếp tham gia vào quá tŕnh lựa chọn bạn đời và tổ chức hôn lễ cho cá nhân, gần nhu thay thế hoàn toàn vai tṛ của gia đ́nh’[2].

Thay đổi thứ hai là ‘sự đơn giản hoá lễ nghi’ đến nỗi thiếu cái bản sắc văn hoá hôn nhân của người Việt. Trong cũng một tập nghiên cứu ‘Hôn lễ xưa & nay ở Việt Nam’, hai nhà nghiên cứu Lê Như Hoa và Bùi Quang Thắng cho hay rằng : ‘Có thể nói, ở miền Bắc vào thời kỳ 1954 đến 1986 là thời kỳ mà hôn lễ có những thay đổi có tính chất đột biến, th́ lễ rước dâu (dẫn cưới) cũng vẫn được coi trọng. Tuy nhiên, do những quan niệm c̣n hạn chế của thời kỳ này về các nghi lễ của hôn nhân (coi những nghi lễ cổ truyền là phong kiến, lạc hậu) nên các nghi lễ trước - sau lễ cưới đều không được khuyến khích và người ta đă tập trung vào việc tổ chức lễ cưới với tinh thần chủ đạo là : vui vẻ, giản dị, tiết kiêm. V́ thế, trong thời kỳ này, đám cưới thường trở thành một cuộc vui công cộng : ai biết pha tṛ hay hát, hát hay trong làng xóm (cơ quan, khối phố) đều tham gia vào góp vui cho đám cưới.... Có lẽ chiến tranh là một nguyên nhân căn bản khiến các lễ này bị giảm thiểu. Nhưng những quan niêm về nghi lễ cũng đóng 1 vai tṛ rất quan trọng trong việc đơn giản hoá này : ví dụ phong trào vận động nếp sống mới đă khiến cho nhân dân hiểu rằng : cái ǵ cũ là lạc hậu. Những năm 1970 có phong trào thực hiên đám cưới theo ‘đời sống mới ‘ (không được giết lợn để làm đám cưới, tiệc mặn không được khuyến khích, thay vào đó là tiệc ngọt, bạn bè tham gia văn nghệ góp vui...trang phục cưới giản dị’[3].

72. C̣n như sức đẩy của kinh tế thị trường, mà cá nhân chủ nghĩa, lợi nhuận, tiện nghi, thú vui, .. là nhũng động lực mạnh mẽ, th́ nhiều tổ chức cũ của văn hoá gia đ́nh đang gặp xung đột. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tỏ ra rất ưu tư về những xung đột trong văn hoá gia đ́nh Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong ba xung đột về ly dị, giáo dục con cái và tự do luyến ái. Các ngài viết :

Hiện t́nh Hôn nhân và Gia đ́nh tại Việt Nam

Anh chị em thân mến, Nói đến gia đ́nh Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lư đức tin. Gia đ́nh ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đ́nh ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đ́nh ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đ́nh ấy sống liên đới với các gia đ́nh khác trong t́nh làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tạo nên một h́nh ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả t́nh huynh đệ Kitô giáo. Chính v́ thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là "Dân Thiên Chúa, Thân Ḿnh Chúa Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần" thường được người Việt Nam h́nh dung như một gia đ́nh.

Nguyên do dễ thấy nhất là tiến tŕnh "công nghiệp hoá, đô thị hoá". Tiến tŕnh này tự nó đem lại nhiều phúc lợi cho xă hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đ́nh, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ư thức về phẩm giá sự sống.

Tuy nhiên, h́nh ảnh đẹp về gia đ́nh Việt Nam hiện nay đang có nguy cơ mờ nhạt dần đi. Nguyên do dễ thấy nhất là tiến tŕnh "công nghiệp hoá, đô thị hoá". Tiến tŕnh này tự nó đem lại nhiều phúc lợi cho xă hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đ́nh, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ư thức về phẩm giá sự sống.

Cùng với tiến tŕnh này là hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để t́m việc làm. Hậu quả là một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đ́nh đến làm việc ở nơi xa lạ, nên dễ bị bóc lột sức lao động và mắc phải những tệ nạn xă hội như x́ ke, ma tuỶ hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang.

Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xă hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đ́nh như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực...[4]’

 

  Paris, 2006
Trần Văn Cảnh

 


Ghi Chú

1- Lê Như Hoa; Hôn lễ xưa và nay ở Việt Nam; Hà nội; Viện Văn Hoá và Nhà xuất bản văn hoá Thông tin : 1998, tr. 26-27.

2- Khuất Thu Hồng; Các mô h́nh hôn nhân ở Đồng bằng Bắc Bộ - từ truyền thống đến hiện đại; Viện Xă Hội Học, 1997; trích trong Lê Như Hoa; Hôn lễ xưa và nay ở Việt Nam; Hà nội; Viện Văn Hoá và Nhà xuất bản văn hoá Thông tin : 1998, tr. 28-29. Mấy trang sau, Khuất như Hồng ghi thêm ư kiến của một phụ nữ kết hôn ở Hà nội năm 1972 như sau ‘Nam 17 tuởi, tôi đi thanh niên xung phong... sau đó tôi chuyển về công tác tại một Bộ. Lúc ấy người ta đề cao đạo đức và nghĩa vụ, yêu đương ai th́ phải do tổ chức có đồng ư hay không. Ông chồng tôi đến đặt vấn đề với gia đ́nh, đồng thời cơ quan ông ấy đến đặt vấn đề với cơ quan tôi chứ giữa hai người là không có t́m hiểu ǵ cả mà chỉ qua giới thiệu. Tôi nghĩ, người ta đặt vấn đề với gia đ́nh ḿnh rồi, tổ chức cũng đă đặt vấn đề với tổ chức cơ quan tôi. Lúc đó, tất cả các trường hợp muốn lấy vợ, lấy chồng là người của cơ quan tôi th́ phải làm lư lịch điều tra. Nhưng khi tổ chức bên cơ quan ông ấy nói là ông ấy là đảng viên, là bí thư chi bộ th́ lư lịch cũng không cần phải viết nữa, tổ chức đồng ư hết... Tôi nghĩ (ông ấy) là đảng viên, lại hơn ḿnh 10 tuổith́ cũng tốt, đến hôm đi đăng kư tôi mới biết ông ấy hơn tôi 20 tuổi nhưng vẫn chưa biết là có vợ. Lúc ấy tôi nghĩ là ḿnh cũng lớn tuổi rồi, gia đ́nh cũng đồng ư rồi, nên quyết định lấ cho xong, cho có chồng. Sau này tôi mới thấy là sai lầm quá, tin vào cơ quan, nghĩ là lư lịch trong sạch, nào ngờ, có bảo đảm ǵ đâu, hạnh phúc không có, không có ǵ cả...’

3- Lê Như Hoa, sđd, tr. 68-69

4- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung mục vụ 2002 về ‘Thánh hoá gia đ́nh’

 


Mời đọc tiếp các bài :

1 2 3 4 5 6 7 8 9

Xem các bài viết khác trong Trần Văn Cảnh , Khoá 6 GHHV Đà Lạt Việt Nam.