HIỂU M̀NH BIẾT NGƯỜI

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12 13 14 15 16 17 18

gxvnparis

 

 

CHƯƠNG 4

 

tính t́nh
nơi trẻ em

 

II.- BỐN MẪU TÍNH T̀NH NƠI TRẺ EM

Trong chương 1, chúng ta đă dùng 4 mẫu-tự (chữ cái) để sắp loại tính t́nh của người lớn qua 70 câu hỏi nhận-xét, trong chương này, chúng ta cũng hy-vọng thử sắp loại tính t́nh của trẻ em giống như vậy. Dĩ nhiên đây chỉ là một cố-gắng thử xem sao thôi, bởi lẽ những nhận xét chúng ta có về trẻ em không thể nào chính-xác bằng những lời nhận-định về người lớn được, v́ đây là vấn-đề khuynh-hướng, sở-trường, ưa thích hay không. Những đoạn tiếp theo đây diễn-tả những cách-thức mà các mẫu tính t́nh đó lớn lên. Chúng ta sẽ lần lượt diễn-tả xem mỗi tính t́nh lớn lên làm sao theo thứ-tự SP, SJ, NT và NF. Cuối cùng chúng ta sẽ có chân-dung của mỗi mẫu tính t́nh theo khía cạnh cách-thức học hỏi.

 

1.- trẻ em chịu chơi (sống phê) SP

Đứa trẻ SP có tính ưa hoạt-động. Mặc dầu thể xác nó cũng thích ăn uống như những trẻ em thuộc các mẫu tính t́nh khác, nhưng tâm-lư của nó cho thấy nó thưởng-thức đồ ăn thú-vị hơn. Thường thường nó thích ăn uống bừa băi làm cho mẹ nó không thích bao nhiêu. Để đứa trẻ SP chơi một ḿnh, chỉ một lúc sau là mặt mũi tay chân nó bẩn thỉu cả. Tất nhiên nó sẽ bị la mắng, để rồi sau đó nó biết bất-cần những lời la mắng đó, v́ cứ bị la mắng hoài măi. Đứa trẻ SP không hiểu được như các mẫu tính t́nh khác rằng pḥng bè phải gọn gàng ngăn nắp sạch sẽ. Pḥng của nó đầy tṛ chơi, quần áo bề bộn, đủ các thứ lặt vặt nhặt lượm từ mọi nơi, không có một thứ-tự nào cả: nhưng nó thích như vậy đó. Nó quá bận rộn không c̣n giờ để tâm treo quần áo vào tủ, để xếp đặt thứ-tự trong ngăn bàn. Nó tự hỏi: ‘Đâu có ǵ khác biệt mà phải lo lắng? Làm như vậy th́ mất hết thời giờ, đâu c̣n giờ để vui chơi nữa!’

Tuy nhiên nếu như đứa trẻ SP muốn hoặc có khuynh-hướng, nó có thể dấn ḿnh làm những công việc đ̣i hỏi chú ư nhiều giờ. Nó có thể mở đậy nắp vung nồi niêu xoong chảo ngày này qua ngày khác, có thể tốn nhiều thời-giờ mân mê cây đàn nó lựa chọn, loáy hoáy mấy đồ chơi nó thích một hồi lâu, để rồi ngày mai nó sẽ quên đi tất cả. Dĩ nhiên những đứa trẻ nào kiên-nhẫn thực-tập sẽ trở thành nghệ-sĩ kỳ-tài đủ mọi loại. Đứa trẻ SP thích hoạt-động và khích-lệ: nó sẽ thích tranh đua.

Nếu như có một số ít thay đổi thường-xuyên và một ít khích-lệ, đứa trẻ SP sẽ tạo nên bầu-khí vui vẻ trong lớp. Nó đem lại niềm vui và tiếng cười, dù đúng lúc hay không. Đứa trẻ SP ưa thích các hoạt-động và dấn-thân hết ḿnh vào các tṛ chơi, các hoạt-động văn-nghệ, các tŕnh-diễn nghệ-thuật. Có thể nó thích chơi các vật-dụng hơn là để ư xem nó có tạo nên được tác-phẩm ǵ không. Đứa trẻ SP có vẻ như thích bay nhẩy, cứ chạy từ chỗ này qua chỗ khác, không tha-thiết làm cho xong một việc. Nó phải làm một cái ǵ đó mới học được. Nó học dễ hơn nếu môn học đó có vẻ giống như một tṛ chơi. C̣n nếu hoạt-động nào không có vẻ tṛ chơi, phải coi đây chỉ là giai-đoạn chuyển-tiếp chuẩn-bị cho tương-lai thôi. Đứa trẻ SP thường xuất-sắc khi học lớp mẫu-giáo, v́ tṛ choi là phần chính của chương-tŕnh. Rồi càng học lên lớp trên với công việc chính là chuẩn-bị, học-tập các quy-tắc và sự kiện nhờ việc đọc sách và viết lách, nó bắt đầu mất hứng-thú. Đứa trẻ SP không thích chuẩn-bị lo lắng sắp đặt một cái ǵ cả. Khi chương-tŕnh học bớt các hoạt-động đi, đứa trẻ SP không c̣n thấy các hoạt-động và khích-lệ nó muốn nữa. Rồi nếu như việc học đ̣i hỏi phải tập-trung tư-tưởng, nó sẽ trở nên bất-an, và sẽ t́m cách trở về những hoạt-động tự ư nó t́m ra. Và hậu-quả là nó hay phá phách trong lớp hoặc t́m cách bỏ học.

Đứa trẻ SP cực-đoan rất hay tỏ ra bất-an, đứng ngồi không yên mau chán ngán, và dễ làm các việc lẩm-cẩm mà các giáo-chức và bác-sĩ vô-t́nh gán ghép cho nhăn-hiệu ‘hoạt-động thái-quá’ (con lăng quăng), theo như nguyên-tắc vật-lư hiện-hành. Đàng khác, nó có thể bị quá khích-lệ, quá hăng say, quá nhiệt-t́nh mà không đủ khả-năng để ḥa dịu lại một cách dễ dàng nữa. Điều quan-trọng là đứa trẻ SP cần phải có những lúc yên lặng thanh-thản và được huấn-luyện để nghỉ xả hơi thư-giăn. Nó cần có lúc được hoạt-động tự-do, nhưng cũng cần có chỗ trầm-lặng yên-hàn. Những bàn ghế ngăn ô riêng biệt trong lớp học dành cho mỗi học-sinh một chỗ riêng, là môi-trường lư-tưởng nhất đáp-ứng nhu-cầu của học-sinh SP.

Đứa trẻ SP thường là đứa trẻ hoạt-động nhiều, cho dù đứa trẻ SP hướng-nội I ít hoạt-động hơn đứa trẻ hướng-ngoại E. Nếu ai t́m cách thay đổi căn-bản đứa trẻ SP th́ chỉ làm cho nó mất thăng-bằng khó thích-hợp lại với xă-hội, bởi lẽ nó không phải là SJ hay NT hoặc NF. Nó chỉ muốn biểu-diễn thi-thố chứ không muốn trách-nhiệm, chuyên-môn hoặc trọn-hảo. Nó không thích chỉ ngồi ro ró trong pḥng với chỉ một tṛ chơi, mà nó muốn phải được đi tung tăng tự-do lang thang bay lượn hết chỗ này tới chỗ khác tùy hứng. Nó thích chơi với loài vật, cho dù có lúc nó cũng tỏ ra khó chịu với loài vật. Đứa trẻ SP nên có những đồ chơi chắc chắn, quần áo bền dai, v́ nó dễ coi thường tất cả. Nó chỉ chú ư tới các tṛ chơi dễ, các đồ vật đơn-giản, chứ không thích những ǵ là cầu-kỳ.

Đứa trẻ SP liên-hệ với người khác ngang hàng như anh chị em chứ không như cha mẹ, do đó dễ chơi đồng-đội. Nó thích được ganh đua thi tài. Đối với nó, b́nh-đẳng cũng quan-trọng như tự-do. Nó thích nói chuyện với người khác, nhưng nó lại cần kiểm-soát hoạt-động của nó. Nếu như nó không hoàn toàn kiểm-soát được các hoạt-động, tự dưng nó sẽ hết hứng-thú không c̣n muốn làm ǵ nữa. Nó muốn tự ḿnh khám-phá ra thứ-tự các hoạt-động của ḿnh, cho dù nó cũng không thích sự tham-gia của các người khác vào các diễn-tiến hoạt-động, Muốn cho nó tham-gia tích-cực, phải làm sao cho nó thích-thú trước đă. Nó không thích học hỏi một cách thụ-động. Nó muốn sao phải tích-cực điều-khiển hoạt-động hoặc làm một cái ǵ. Tốt hơn hết là phải làm sao cho nó thích-thú trước đă, rồi nó sẽ hy-sinh dấn-thân sau.

Nếu muốn nhận xét về một đứa trẻ SP, phải để ư đến khía cạnh tŕnh-diễn. Muốn cho có ảnh-hưởng tới đứa trẻ SP, phải nói tới hiệu-quả của hành-động. Đứa trẻ SP thích nghĩ tốt về ḿnh và về những người điều-khiển nó, nếu nó có được tự-do để có cơ-hội hành-động. Muốn thuyết-tŕnh cho nó, phải nói ngắn, và nó cũng chỉ thích đọc bài ngắn. Tốt nhất là pha lẫn các cách học bài riêng với những hoạt-động mà nó thích-thú. Nên thay đổi lúc học riêng, lúc học theo nhóm nhỏ, lúc học theo nhóm lớn, như vậy sẽ giúp nó bớt những đề-kháng tự-nhiên lúc đầu. Đứa trẻ SP thích nhất là đóng kịch diễn tuồng. Nó muốn được người ta coi nó diễn-xuất, và nó lấy làm rất thích-thú. Nếu lớp học có các hoạt-cảnh xă-hội, đó là các hoạt-động nó ưa-thích hơn cả.

Nói như thế không có nghĩa là đứa trẻ SP không nên tập-luyện tập-trung tư-tưởng hoặc phải tŕ-hoăn không nên va chạm với các vấn-đề phức-tạp thực-tế khó-khăn đâu. Dĩ nhiên nó cũng cần phải phát-triển các khả-năng này, và bước đầu-tiên là công-nhận các khuynh-hướng tự-nhiên của nó trước đă, đồng-thời nh́n nhận rằng mẫu trẻ con như vậy có khuynh-hướng tự-nhiên xa tránh các khía cạnh phức-tạp, bởi lẽ nó có tính cách đột-xuất bộc-trực và muốn tŕ-hoăn.

Đứa trẻ SP có thể gây nên phiền-toái rắc rối trong lớp học, khi nó bị bắt buộc phải học tuyệt-đối theo kiểu SJ. Những kiểu dạy học như bắt đứa trẻ SP ngồi vào bàn học măi, bắt nó ngồi ghế hàng đầu, chỉ cho phép nó nói chuyệïn với giáo-chức không thôi, bảo nó phải học bài, viện lư-do là ‘mai mốt lớn lên, nó sẽ cần đến kiến-thức này nọ’, hoặc bắt nó suốt ngày chỉ vật-lộn với cái tư-tưởng trừu-tượng trên giấy tờ: tất cả chỉ là uổng công vô-ích mà thôi. Làm như vậy không thích-hợp chút nào với nhóm SP, để rồi nó sẽ chán học, bỏ lớp, hoặc cùng lắm chỉ ngồi đó có xác mà không có hồn, bỏ đi sớm chừng nào hay chừng nấy. Thế mà trung-b́nh mỗi lớp học có chừng 40% học-sinh là SP. Đó là lư-do tạo sao mẫu tính t́nh này có khuynh-hướng học xong trung-học là thôi, ít khi học tiếp lên đại-học, hoặc cùng lắm là đi dự một vài khóa hội-học chuyên-môn thôi.

Kiểu-cách SP học-tập không thích chủ-trương ‘ngày nay học-tập, ngày mai giúp đời’. Đứa trẻ SP chỉ muốn được tự-do để sống theo cảm-hứng hiện-tại, muốn tự-do dấn-thân làm các việc tay chân thể xác, muốn học tập trong bầu-khí phấn-khởi có liều-lĩnh , mạo-hiểm và ganh đua, có mầu sắc âm-thanh và ánh-sáng, cử-động thật nhiều. Thực ra có niều khi chỉ có một lư-do độc-nhất giữ chân đứa trẻ SP ở lại trong trường đó là cơ-hội chơi một nhạc-cụ. Các đứa trẻ SP thích học nhạc có lẽ v́ nhiều tác-động và thính-giả làm cho nó vươn lên.

Cách-thức đứa trẻ SP học tập h́nh như không đúng với cách-thức giảng-huấn trong đa-số các lớp học. Hơn nữa đa-số các giáo-chức lại là SJ nên dĩ nhiên họ giảng-dạy theo đường lối SJ nhiều hơn. Như vậy giáo-chức SJ giảng-dạy học-sinh SP phải hướng tới các mục-đích xa vời, phải học tập ngày nay v́ đây là cách tốt nhất chuẩn-bị hy-vọng học cao hơn, phải tiết-kiệm từng xu nhỏ để bảo-đảm tương-lai mai ngày, phải đặt kế-hoạch mới có thể tiến-thân, mới có ḥa-đồng với xă-hội, như thế mới mong có được một chỗ đứng. Tất cả những mục-đích đó chẳng có nghĩa-lư ǵ đối với đứa trẻ SP cả. Đối với nó, chuẩn-bị cho tương-lai có nghĩa là phải quên đi hiện-tại. Nó muốn sống theo cảm-hứng và phấn-khởi của ngày hôm nay: ngày mai hăy để cho ngày mai lo.

Xin hăy coi thử một trường-hợp này: một học-sinh SP được giáo-chức nhắc nhở: ngồi yên trong lớp, nh́n lên phía trước, làm bài ở nhà trước, tập thói quen học-hành đàng-hoàng, phải giữ kỷ-luật, học trước chơi sau, chỉ được chơi trong những giờ rảnh rỗi không có chi làm, hăy chờ-đợi, hăy đứng sắp hàng. Tất nhiên đứa trẻ SP sẽ đứng sắp hàng chờ đợi, ép ḿnh theo thói quen, làm việc cho ngày mai, trong khi nó rất nôn nóng chỉ mong đến giờ ra chơi, đi nghỉ. Tất cả những hoạt-động trên chẳng có ǵ là hấp-dẫn đối với đứa trẻ SP: nó có ép ḿnh học trong lớp đó, nhưng rồi mỗi ngày một cảm thấy ít hấp-dẫn thích-thu. Hậu-quả là có ít người SP học trên tŕnh-độ cao. Trẻ em SP không học được đúng khả-năng trong trường đâu. Giáo-chức khuyên nhủ: phải học để t́m thấy cái thú học tập, nhưng khốn nỗi học-sinh SP không thực sự lĩnh-hội được ư-nghĩa câu nói đó. Học-sinh SP sẽ làm cho giáo-chức bực ḿnh, cha mẹ không hiểu nổi. Dĩ nhiên cha mẹ cũng như giáo-chức chỉ muốn ‘suy bụng ta ra bụng người’, muốn cho con em ḿnh cũng được thành-đạt theo mơ ước của ḿnh. Nhưng trẻ em đâu có muốn như vậy. Tính-t́nh chịu chơi SP phát-hiện rất sớm trong thời thơ-ấu và khó mà tan-biến đi.

 

2.- trẻ em chịu trận (siêng làm) SJ

Đứa trẻ SJ dễ làm cho liên-hệ gia-đ́nh bị tổn-thương sứt mẻ hơn các mẫu tính t́nh khác. Nó cần được cha mẹ tỏ ra ḥa-hợp, cương-quyết và b́nh-thản. Nếu cha mẹ một người nghiêm-nhặt một người dễ dàng th́ sẽ gây tai-hại rất nhiều cho đứa trẻ. Nó cần phải biết chắc chắn rằng hôm nay thế nào ngày mai cũng sẽ vậy. Chẳn hạn như thay đổi chỗ ở thường-xuyên sẽ làm cho đứa trẻ SJ bất-ổn, trong khi đó đứa trẻ SP, NT hoặc NF có thể đáp-ứng dễ dàng hơn, cho dù cách đáp-ứng của mỗi mẫu tính t́nh có khác nhau. Đứa trẻ SJ cần phải được lớn lên và giáo-dục cùng với bạn bè trong xóm, trong làng, cùng môi-sinh cộng-đồng. Nó cảm thấy sống thoải-mái với đại-gia-đ́nh ông bà nội-ngoại chú bác cô d́, họ hàng thân-thuộc đủ mọi tầng lớp. Nó thích nghe kể những câu chuyện gia-đ́nh và nhớ măi những câu chuyện đó mai ngày khi lớn lên. Đứa trẻ SJ sống thoải-mái trong gia-đ́nh đông con, và càng nhiều anh chị em càng thích, trong khi đó đối với các mẫu tính t́nh khác th́ không quan-hệ ǵ.

Đứa trẻ SJ có khuynh-hướng thích các tập-quán thói quen và thường chu-toàn nhiệm-vụ được trao phó một cách rơ ràng chi-tiết, t.d. đổ rác, quét nhà, lau bàn, dọn pḥng. Dĩ nhiên nó chỉ có thể chu-toàn những nhiệm-vụ mà nó có khả-năng thực-hiện. Nó được vui mừng nhất là khi nào được người lớn tán-thưởng khen ngợi. Đứa trẻ SJ rất cần nhận được những lời chỉ-giáo. Nếu như người lớn không tiếp-tục nói cho biết nó làm ăn ra sao, chẳng mấy chốc nó sẽ chán nản chẳng tha-thiết với nhiệm-vụ được trao phó nữa. Đứa trẻ SJ cũng biết đáp-ứng lại lời phê-b́nh chỉ-trích để rồi sẽ cố-gắng cải-tiến hơn nhiều. Đứa trẻ SJ chịu nhận chuyện sửa phạt thể xác như là cách-thức sửa sai dạy dỗ. Khi đi học đứa trẻ SJ thích-ứng dễ dàng với lớp học và nhà trường, với kỷ-luật và thói quen, cho dù lúc đầu đứa trẻ SJ hướng-nội có tỏ ra nhút nhát. Đứa trẻ SJ phát-triển tốt đẹp với các phương-pháp giáo-dục công-thức kỹ-thuật như làm bài đă ra, lặp đi lặp lại, thực-tập, học thuộc ḷng, trả lời các câu hỏi của giáo-chức.

Đứa trẻ SJ thích cố-gắng đủ mọi cách để làm vui ḷng giáo-chức và thường không hỏi lư-do tại sao lại có bài học bài làm như đứa trẻ NT sẽ hỏi. Chỉ nguyên một lư-do là v́ giáo-chức đă ra chỉ-thị, thường đă đủ để nó vâng-lời. Dĩ nhiên đứa trẻ SJ khó mà phát-triển mỗi lần bị thất-bại, nhưng có lẽ nó sẽ dễ chấp-nhận thất-bại do nó nhận-định ra hơn là do giáo-chức giám-định, nhất là khi việc giáo-chức giám-định là tiêu-cực và khi đứa trẻ ít có được thành-công khi làm vừa ḷng người khác. Đứa trẻ SJ có khuynh-hướng ghi-niệm quư giá các bài được khen tặng, các thành-tích vẻ vang, các chiến-công được tuyên-dương, các bảng tưởng-thưởng. Nó thích-thú được vinh-dự làm đầu nêu lên bảng, đúng xếp hàng đầu, làm trưởng lớp, làm chủ-tịch hội. Những vinh-dự đó có nghĩa là nó được thầy yêu bạn quư và cha mẹ thương.

hoc ve

Đứa trẻ SJ h́nh như thích-thú thực-tập các năng-khiếu văn-pḥng như tính toán, đọc lớn tiếng và đánh vần. Nó cảm thấy hấp-dẫn tất cả các khía-cạnh thực-tế của khoa-học, địa-dư và lịch-sử. Khi trẻ SJ học tới trung-học, nó có khuynh-hướng chọn ngành dịch-vụ doanh-thương. Ngôn-từ mỗi ngày một trở nên dụng-cụ cần-thiết để làm việc. Tuy nhiên nó sẽ bớt chú ư đến văn-chương và viết lách sáng-tạo , và có khuynh-hướng xa tránh các khoa-học và toán cấp cao. Nó thường không thích kịch-nghệ hoặc tranh-luận bao nhiêu. Lên đại-học, sinh-viên SJ đa-số chọn ngành kinh-doanh, kế-toán, dạy học, y-tá và các ngành phục-dịch khác.

Trẻ em SJ thường thích đi theo cha mẹ viếng thăm bạn bè, và chúng vui hưởng các ngày lễ cổ-truyền như lễ Tạ ơn lễ Giáng-sinh ở Hoa-kỳ, hoặc ngày Tết nhất đ́nh đám ở Việt-nam. Chúng vui mừng thích-ứng với thói quen cố-định chính-xác, trong khi đó chúng cảm thấy khó chịu bực ḿnh khi có thay đổi, lộn xộn và khủng-hoảng. Thay đổi giáo-chức giữa năm sẽ tạo nên mối bất-ổn với học-sinh SJ, trong khi đó học-sinh SP lại có cơ-hội phát-triển. Đứa trẻ SJ có khuynh-hướng ǵn giữ trật-tự trong tủ áo, và bàn học có ngăn nắp gọn gàng, quần áo gấp phẳng phiu đâu vào đó. Ngay đồ chơi cũng được sắp đặt thứ-tự từng ngăn ô.

Đứa trẻ SJ sẽ học có kết-quả tiến-bộ hơn nếu nó được chỉ-dẫn từng bước mới một, được có dịp chứng-tỏ nó hiểu biết từng giai-đoạn nhỏ một. Bắt đứa trẻ SJ tự ḿnh t́m ra cách-thức học, hoặc chỉ cho nó những lời chỉ-dẫn mung lung mơ-hồ, sẽ không giúp nó phấn-khởi được như trường-hợp đứa trẻ NT. Đứa trẻ SJ cần biết người ta muốn nó làm ǵ và cần biết chắc chắn những cách-thức để chu-toàn nhiệm-vụ. Nó phát-triển thoải-mái khi có chương-tŕnh rơ ràng cố-định

Đứa trẻ SJ thích làm những tiểu-xảo ở nhà. Nó thích dùng gỗ, vải, len để làm các đồ-vật linh-tinh cũng như trẻ SP, nhưng đứa trẻ SJ chăm chú để ư đến đối-tượng là đồ-vật, là sản-phẩm làm được, c̣n trẻ em SP th́ để ư đến cách-thức làm. Tuy nhiên cách-thức để chế-tạo đồ-vật cũng phải được thi-hành đúng mức. Nếu đứa trẻ SJ có tặng ai một đồ-vật ǵ nó làm, đó là tặng với tất cả tâm-hồn của nó, và nó muốn được người ta biết ơn, cảm mến, nâng niu, và khoe trương phô bầy.

Đứa trẻ SJ cần phải có người lớn luôn luôn nhắc nhở chỉ bảo xem nó làm việc thế nào. Đối với đứa trẻ SJ, việc nó làm đúng hoặc sai thật là quan-trọng, và dĩ nhiên nó chỉ muốn làm cho đúng, có nghĩa là nó muốn làm theo ư của người lớn. Đứa trẻ SJ để ư đến chi-tiết. Nó lấy làm rất quan-trọng phải thi-hành cho được các nhiệm-vụ cho ḿnh cũng như cho người khác. Chẳng hạn như nó cảm thấy vui mừng khi t́m ra được đúng đầu đề của một bài luận, một bản văn. Điều quan-trọng là nó phải có các thói quen học tập tốt, và cách học tốt nhất là phải đúng giờ giấc. Đứa trẻ SJ muốn sắp đặt mọi công việc của nó một cách chi-tiết cẩn-thận, chương-tŕnh rơ ràng và thi-hành đúng mức.Đứa trẻ SJ dễ đáp-ứng lại những lời khuyến-khích và cần được người ta cho biết là nó làm việc tốt. Thông-thường trẻ em SJ lớn lên và phát-triển thoải-mái. Thống-kê cho biết ít ra cha hoặc mẹ cũng là SJ, và đứa trẻ dễ thích-ứng với cha mẹ NF hoặc NT. Trong trường-hợp cả hai cha mẹ là SP với tính t́nh khó lường trước được, có thể nó sẽ gặp một ít khó khăn. Đứa trẻ SJ h́nh như cần và thích làm vui ḷng người khác, và nó có khuynh-hướng đáp-ứng đúng mức những đ̣i hỏi của những người dạy dỗ nếu như họ tỏ ra chính-xác rơ ràng. Những đ̣i hỏi đó không cần phải hoàn toàn có lư hoặc nhất-mực, nhưng chỉ cần phải rơ ràng về những ǵ người khác muốn. Đứa trẻ SJ đáp-ứng rất đúng những lời khen ngợi như ‘con ngoan lắm! tốt lắm! con làm đúng y như Ba Má/thầy cô muốn. con làm khéo quá! chữ con viết đẹp ghê!’

Khuynh-hướng tự-nhiên của giáo-chức SJ khi giảng dạy dĩ nhiên đáp-ứng nhu-cầu của học-sinh SJ. Cả giáo-chức lẫn học-sinh SJ đều thích những cách như chủ-tâm tới trách-nhiệm, làm sao để có thói quen học tốt, phát-triển các thái-dộ xă-giao, chu-toàn những nhiệm-vụ có tổ-chức đàng-hoàng theo cách-thức đă được công-nhận. Học-sinh SJ thu-thập được kiến-thức qua việc cần-mẫn t́m kiếm các sự kiện, xem đi xem lại các bài vở, các bài đọc thêm, các tài-liệu giảng dạy phương-pháp cổ-truyền, qua các sách giáo-khoa và sách làm bài tập. Các tài-liệu giảng dạy được soạn sẵn chứng-tỏ rất hữu-ích cho giáo-chức, và h́nh như họ thích-thú và đáp-ứng mau lẹ các cách tŕnh-bày từng bước một theo thứ-tự tiệm-tiến. Những tài-liệu học hỏi được sắp đặt thành hệ-thống h́nh như có sức lôi cuốn học-sinh SJ hơn học-sinh SP, NF và NT. Học-sinh SP muốn có hoạt-dộng nhiều hơn, học-sinh NF muốn trong lớp có liên-hệ đối-đáp với nhau hơn, và học-sinh NT không thích bài lặp đi lặp lại. Học-sinh SJ phát-triển thoải-mái trong một lớp học có tôn-ti trật-tự ngăn nắp đâu vào đó theo thói quen lề lối hằng ngày ít thay đổi. Học-sinh SJ phát-triển trong lớp học được tổ-chức đàng-hoàng, yên lặng, gọn gàng, và không cảm thấy khó chịu khi suốt giờ học chỉ là đối-thoại giữa thầy cô và tṛ. Học-sinh SJ thích những thực-tập, học thuộc ḷng như con vẹt, lối hỏi thưa vấn-đáp, và những bài thuyết-tŕnh có nhiều dẫn chứng cụ-thể thực-tế. Cũng có khi nó đáp-ứng lại những lời từ-chối, lời châm-biếm, lời trêu chọc miễn là những lời tiêu-cực này không phải là do người lớn khuyên nên nói. Đứa trẻ SJ dễ lo lắng về bài vở, và nó có lương-tâm đàng-hoàng chỉ muốn sao để làm vừa ḷng giáo-chức thôi.

 

3.- trẻ em nghiêm-túc (năng tiến) NT

Đứa trẻ NT có lẽ coi bộ nghiêm-trang và rất dễ gây thắc-mắc cho những người sống chung quanh, nếu như họ không phải là NT. Nó coi bộ khôn lớn sớm, nói sớm, và biết đọc trước khi đi học nhà trường. Khó có trường-hợp cha mẹ NT mà lại có con NT, v́ chỉ có 12% người thuộc loại NT. Đứa trẻ NT cũng cảm thấy bị bỏ rơi như đứa trẻ SP, nhưng đứa trẻ SP cảm thấy như vậy khi bắt đầu đi học và từ lớp này lên lớp khác. Đứa trẻ NT cảm thấy bị bỏ rơi sớm hơn. Hầu như đứa trẻ NT nào cũng cảm thấy một kinh-nghiệm giống nhau về thời-kỳ nhỏ bé với những lời phát-biểu tương-tự như sau: ‘Tôi cứ tưởng rằng trên thế-gian này không có ai giống tôi ǵ cả. Khi lớn lên tôi thấy không ai có quan-niệm giống tôi. Khi vào đại-học, bỗng dưng có nhiều người giống tôi. Tôi không c̣n đơn-đôïc nữa.’

Đứa trẻ NT thường có khuynh-hướng hỏi cha mẹ những câu hỏi ‘tại sao?’ như tại sao mặt trời lại mọc ở phía đông mà không mọc ở phía tây? tại sao tôi lại không có thể bay bổng được như chim? tại sao tôi không được ăn bánh trái trước khi ăn cơm, v́ trước sau ǵ tôi cũng ăn tất cả vào bụng mà? Thông-thường đứa trẻ NT thích tự-lập, nên dễ có tính cách bất-khuất, cho dù nó có khuynh-hướng tỏ ra vâng lời và tuân-phục trong các vấn-đề nó không quan-tâm đến.

Cũng như đứa trẻ SP theo đuổi ham muốn hoạt-động, đứa trẻ NT cũng say mê tính ṭ ṃ hiếu-kỳ với câu hỏi như ‘giả-dụ như... th́ sao đây?’ Và nó t́m cách để trả lời câu hỏi đó, cho dù người phụ-trách nó đồng-ư hay không cũng vậy thôi. Giả-dụ như tôi tḥ tay vào lỗ cắm điện th́ sẽ ra sao đây? Giả-dụ như tôi thả bánh vào b́nh nước th́ sẽ ra sao đây?’ Dĩ nhiên những câu hỏi đó không làm cho người lớn phải điên cái đầu để t́m ra một lời giải-đáp thỏa-đáng , nhưng mục-đích chính là để đứa trẻ NT thỏa-măn tính hiếu-kỳ muốn khám-phá xem có ǵ không. Ít khi nó tạo nên mâu-thuẫn với những người chung quanh nó, cho dù nếu v́ ṭ ṃ t́m hiểu mà xẩy ra có mâu-thuẫn, nó có khuynh-hướng chấp-nhận hậu-quả một cách vô-tư. Nó thường tạo nên khó chịu cho những người hướng-dẫn nó, bởi lẽ nó có khuynh-hướng tảng lờ bỏ qua, không để ư đến những lời quở mắng. Đứa trẻ NT dễ mất ḷng kính-trọng đối với những người quở mắng nó mà không có lư-sự đàng-hoàng, hoặc ra những lệnh-truyền mà không có lư-do chính-đáng.

Đối với đứa trẻ NT, h́nh-phạt thể-xác là một vi-phạm trầm-trọng. Cho dù thể xác của nó cũng như thế-giới của nó là nguồn gốc tính hiếu-kỳ, nhưng con người của nó không giống như thể xác trong các mẫu tính t́nh khác. Nó phản-ứng lại các hành-hạ thể xác một cách có thể nói là nhấn mạnh quá đáng, coi các h́nh-phạt này là xâm-phạm bản-tính nhân-vị của nó. Tư-cách con người là một giá-trị quan-trọng đối với trẻø em NT, và nó thường được mô-tả là có tư-cách, hiên-ngang của trẻ em NT là thách-thức trêu chọc, làm cho xẩy ra vấn-đề có sự căng thẳng, thách-đố giữa trẻ em NT và những người chung quanh rồi dĩ nhiên họ sẽ bắt trẻ em NT phải xuống nước.

Cha mẹ của trẻ em NT phải có thái-độ thả lỏng để cho nhiều tự-do. Đứa trẻ NT cần phải có thật nhiều cơ-hội để thí-nghiệm, t́m kiếm, đạt được câu trả lời. Nếu không cho trẻ em NT có môi-trường thử-nghiệm thực-tập, dĩ nhiên sẽ tạo cho nó có cơ-hội không vâng-lời và phá phách công-khai hoặc thầm lén. Cha mẹ của trẻ em NT nên cho nó có nhiều đồ chơi khác nhau, nhưng chỉ nên đưa cho nó mỗi lần một vài đồ chơi, thay v́ đưa cùng lúc tất cả một loạt các đồ chơi. Đứa trẻ NT cũng như nhiều đứa trẻ khác dễ bị kích-động thái-quá. Riêng trẻ em NT khôn sớm hơn, nên cha mẹ dễ có khuynh-hướng cho các đồ chơi hợp với tuổi của các mẫu tính t́nh khác, nhưng lại không thích hợp với tuổi và mức-độ của tuổi NT. Thông thường trẻ em NT thích đọc sách và nghe kể chuyện đâu đâu ǵ khác. Nó có khuynh-hướng hám một đồ chơi mới, chơi đồ chơi đó một vài giờ, t́m hiểu ngắm nghía các đặc-biệt của đồ chơi đó, rồi bỏ đi chẳng thèm nḥm ngó ǵ tới nữa. Một khi trẻ em NT hiểu được đồ chơi đó rồi, nó không c̣n hứng-thú ǵ nữa, Nó thích được người lớn đọc sách cho nghe, có lẽ là v́ tính hiếu-kỳ, và qua các câu chuyệïn nó nghe người lớn đọc, nó có thể khám-phá thêm các chi-tiết phức-tạp mà tự nó đọc, nó không t́m hiểu ra nổi, và nhờ đó nó cảm thấy thích-thú. Nó có thể tỏ ra nôn nóng không kiên-nhẫn đủ với nội-dung của các sách vỡ ḷng và có thể v́ thế mà không thích-thú chịu khó tập đọc ǵ cả làm cho giáo-chức phải ngạc-nhiên. Tuy nhiên đó chỉ là trường-hợp ngoại-lệ đặc-biệt của đứa trẻ NT.

Những trêu chọc châm-biếm trào-phúng ngụ-ư về khả-năng của đứa trẻ NT sẽ có một ảnh-hưởng tai-hại kinh-khủng đối với nó. Nó có khuynh-hướng tự hoài-nghi chính ḿnh hơn các mẫu tính t́nh khác, và dĩ nhiên nó rất cần nhiều cơ-hội để thành-công. Nó rất dễ bị thương-tổn về vấn-đề này. V́ ngay từ đầu nó thích máy móc kỹ-thuật, nếu cha mẹ và giáo-chức tận-tâm cứ đ̣i hỏi nó phải cố-gắng làm hơn khả-năng của nó, để rồi một khi thất-bại, nó sẽ rút lui vào bóng tối một ḿnh. Ít khi đứa trẻ NT có thể đối-đáp khả-đáng được với những lời phê-b́nh chỉ-trích. Muốn cho đứa trẻ NT lớn lên với nhu-cầu nó muốn trở nên thành-thạo và khát-vọng nó được hiểu nhiều biết rộng, phải giúp đỡ nó khi cần, trả lời đủ mọi thứ câu hỏi nó đặt ra dường như vô-tận, cung-ứng cho nó các đồ chơi thích-hợp đủ số, cho nó có chỗ để cho nó tự t́m câu trả lời trong thế-giới nhỏ bé của nó.

Trong vấn-đề giao-tế xă-hội, đứa trẻ NT có vẻ như chậm chạp, cho dù về trí khôn nó lại triển-nở rất sớm. Đứa trẻ NF phát-triển các liên-hệ t́nh-nghĩa xă-giao một cách rất hồn-nhiên, trong khi đó đứa trẻ NT cho đây là một mầu-nhiệm khó hiểu. Ít khi nó nghĩ đến các cử-chỉ lịch-thiệp giao-tế, và nó hay quên đi cách liên-hệ với người khác. V́ thế thường thường đứa trẻ NT không phát-triển được khả-năng đắc-nhân-tâm như thường thấy ở đứa trẻ NF, SJ và SP, cho dù mỗi tính t́nh một khác. SP vui vẻ cười cười nói nói, SJ cử-chỉ suy-tư phục-vụ nhiều khi có tính cách bất-ngờ, NF với tính cách vừa người lớn vừa trẻ con. Đứa trẻ NT hướng-nội không có một nét nào giống như mấy mẫu tính t́nh vừa tả. Đứa trẻ INT có nhiều khi không thể hoặc chỉ miễn-cưỡng biểu-lộ t́nh-cảm, rút lui vào bóng tối qua cách biểu-lộ bề ngoài của người khác, và thường có một lớp hàng rào ngăn chặn - đó là hàng rào tự hoài-nghi chính ḿnh.

Muốn giúp đứa trẻ NT, phải làm sao cho nó có niều cơ-hội thành-công, tạo nên nhiều khuyến-khích trí óc, dùng nhiều lời khuyến-khích và cổ-vơ các khả-năng giao-tế xă-hội. Nếu chỉ phô-trương đứa trẻ NT thôi, hoặc để cho nó trở thành nhà trí-thức ‘rởm’ (dổm), cho phép nó khinh-khi người khác, v́ có lẽ họ không thông-minh bằng, cho họ là kém thua, th́ thực ra không giúp ích ǵ cho nó cả. Thường thường trẻ em NT học giỏi ở trường, và nó không t́m cách bỏ các môn học khó như khoa-học và toán. Càng học, học-sinh NT càng thích dấn ḿnh vào các bộ-môn đó, và hậu-quả là không thích tham-dự vào các hoạt-động giải-trí, xă-hội trong trường. Cách riêng là đứa trẻ INT có thể cảm thấy đơn độc trong lớp, khá tự-lập, và có khuynh-hướng thích theo đường lối riêng tư của ḿnh để theo đuổi các sở-thích của ḿnh. Đứa trẻ ENT có thể trở nên một người lănh-đạo xuất-sắc, đôi khi ngược lại với đường-hướng do giáo-chức đề-xướng, và như vậy là có vấn-đề tranh-chấp ảnh-hưởng. Đứa trẻ ENT dễ ngoan-cố liều-lĩnh để làm sao mọi thủ-tục cách-thức phải đứng đắn, c̣n đứa trẻ INT lại ngoan-cố liều-lĩnh để làm sao mọi ngôn-từ tư-tưởng phải thật chính-xác.

Đứa trẻ NT v́ đói khát thèm muốn khả-năng, sẽ mau có những tiêu-chuẩn nội-tại để cải-thiện. Nó phải theo đúng các tiêu-chuẩn đó, cho dù có quá cỡ đi chăng nữa. Một trong những nhiệm-vụ trong đời nó là phải chấp-nhận một thực-tế là nó không thể biết hết mọi sự được, nên nó phải đặt ra hệ-thống thứ-tự các ưu-tiên. Phụ-huynh cũng như giáo-chức có thể giúp trẻ em NT sắp đặt thứ-tự các ưu-tiên này.

chantrau

Trẻ em NT thường có khuynh-hướng thành-công vẻ vang trong vấn-đề học-hành, và thường t́m cách học hỏi theo các nguyên-tắc t́m kiếm hiểu biết. Trẻ em NT thích lối tŕnh-bày khúc-triết lư-luận. Nó thường thích đường lối giảng bài nếu giáo-chức giảng bài hay, và thường không thích những phương-pháp thảo-luận bàn-căi. Thực-tế cho biết đôi khi nó tỏ ra bất-nhẫn và cộc cằn khi phải chê bỏ những tư-tưởng và ư-kiến của người khác, nhất là của những người mà nó coi là không thông-minh bằng nó.

Bởi v́ đứa trẻ NT thích quan-trọng-hóa vấn-đề, muốn rằng người khác phải nh́n nhận nó là thông-thạo, nên nó dễ bị các điểm xấu của thành-tích-biểu (sổ điểm) tạo nên ảnh-hưởng tiêu-cực. Một khi nó có được điểm cao, lúc đó nó có thể tin rằng cũng có lúc nó không thành-thạo khi bị điểm xấu. Theo đuổi loại phần thưởng như vậy dĩ nhiên là vô-lư và không khôn-ngoan, bởi v́ đứa trẻ NT sẽ không bao giờ t́m ra được thời-giờ để sinh-hoạt ǵ cả ngoài việc học-hành.

Xét về trí khôn, đứa trẻ NT có thể giống như con cá lớn trong một cái ao nhỏ là trường học. Khi nó lên đại-học, nó sẽ nhận thấy việc tranh-đua có phần khác hơn. Tới điểm này, đứa trẻ NT có thể phản-ứng lại bằng cách bỏ hết các cố-gắng trong sách vở, hoặc chỉ chú-ư một cách sai lầm tới việc học, để rồi có thể giỏi về một bộ môn trong khi lại dở về các bộ môn khác. Phụ-huynh và giáo-chức hăy tạo nên nhiều cơ-hội đầy đủ và kinh-nghiệm khác nhau cho đứa trẻ, cho dù không phải tất cả là sở-trường của nó, điều đó cũng khó có thể xẩy ra, v́ đứa trẻ NT có điều-kiện để thay đổi từ việc đua tranh đáng sợ trở nên một viễn-tượng có thể chấp-nhận được.

Đứa trẻ INT thường không cảm thấy thích-thú mấy các lễ-nghi cung-cách trong gia-đ́nh, bởi v́ nó đ̣i hỏi làm việc ǵ cũng phải có lư-do đàng-hoàng, và có lẽ nó cần phải có người giải-thích cho nó biết lư-do tại sao những nghi-lễ và cung-cách đó lại rất quan-trọng trong sinh-hoạt gia-đ́nh và của người khác. Đứa trẻ NT có thể rất kỳ-cục lầm-lẫn về cách thức ǵn giữ pḥng bè quần áo. Có lúc nó rất thứ-tự gọn gàng, rồi có lúc nó lại để bụi bặm hoặc lộn xộn mà không để ư ǵ cả. Thường thường pḥng bè của nó coi bộ lộn xộn, nhưng đứa trẻ NT chắc chắn sẽ biết đồ vật nào để ở đâu. Nó có khuynh-hướng nhặt nhạnh thu-tích đủ mọi thứ: đất đá, h́nh loài vật, tiền nong, tem thư, bươm bướm v.v...Nó muốn thu-tích và sắp loại những cái ǵ cần sắp đặt phân-loại.

Đứa trẻ NT muốn được người ta cho biết chỉ-thị hoặc nội-dung chỉ một lần thôi, và tỏ ra bất-nhẫn khi có ai lặp đi lặp lại, khác với đứa trẻ SJ có khuynh-hướng muốn có những chỉ-thị rơ ràng và thường không khiếu-nại ǵ khi người ta lặp đi lặp lại nội-dung. Đứa trẻ SP không thích chú-ư quá nhiều đến các chỉ-thị cho dù rơ ràng hay không: ít nhất nó cũng kiểm-điểm lại công-tác nhiệm-vụ trước khi thi-hành. Đứa trẻ NF có khuynh-hướng bỏ qua các chi-tiết của lời chỉ-thị, nên cần phải có chỉ-thị bằng miệng và bằng giấy viết.

Học-sinh NT cần phải nhận được ư-kiến nhận xét về phẩm-chất của công việc nó làm, và nó thường định-giá phẩm-chất của một công việc qua hai khía-cạnh có lư và có hiệu-quả. Nó có thể được hướng-dẫn để tự học riêng được và có thể được tín-nhiệm để theo đuổi việc học đó mà không cần lời khuyến-khích hoặc chỉ-dẫn bao nhiêu của phụ-huynh hoặc giáo-chức. Nó rất thích phát-triển kho-tàng ngữ-vựng của nó, và có khi dùng những ngôn-từ phong-phú này để tranh-luận nới người khác. Đứa trẻ NT có điểm đặc-biệt này là nó hay tỏ ra không chấp-nhận được khi thấy người khác có vấn-đề khó-khăn phức-tạp. Phụ-huynh và giáo-chức có thể giúp cho đứa trẻ NT hiểu biết ảnh-hưởng của thái-độ đó.

 

4.- trẻ em nhân-fẩm NF

Ngay từ thuở nhỏ đứa trẻ NF đă tỏ ra có khiếu về sinh-ngữ. Nó có khuynh-hướng nói sớm, và đứa trẻ ENF h́nh như nói luôn miệng không bao giờ yên lặng được. Đứa trẻ NF có một nét duyên-dáng dễ thương làm cho ai cũng thích ở gần nó. Nó có khuynh-hướng thiên-khiếu xă-giao giỏi, đối với bạn bè cũng như đối với người lớn, cho dù đứa trẻ INF hơi khó truyền-cảm thông-đạt hơn, nhất là khi ra khỏi nhà. Đứa trẻ NF cần và muốn t́m mọi cách để được người ta chú-ư, nh́n nhận, để được những người chung quanh quư mến, và cần được như vậy mỗi ngày.

Đứa trẻ NF có thể bịa chuyêïn và kể chuyện với h́nh ảnh thật sống động. Có khi nó bị buộc tội nói dối, trong khi thực ra nó chỉ sử-dụng trí tưởng-tượng mà thôi. Đứa trẻ NF nhất là INF rất dễ mơ mộng tưởng-tượng rất nhiều. Nó rất dễ nhậy cảm khi bị từ-chối hoặc bị có mâu-thuẫn. Nếu đứa trẻ NF lớn lên trong gia-đ́nh cha mẹ hay căi nhau, nó rất dễ bị co quặp, nhút nhát và thiếu b́nh-an. Nó cần phải được những người chung quanh sơáng an-ḥa để nó có thể phát-triển con người kiên-tŕ của nó.

Đứa trẻ NF muốn t́m hiểu bản-lĩnh tư-cách con người của ḿnh, nên nó thường thích-thú được ví ḿnh y như các nhân-vật trong truyện nhất là truyện thần-thoại cổ-tích. Đứa trẻ NF có khuynh-hướng coi các nhân-vật công-chúa hoàng-tử y như người thật, và các mơ mộng hăo-huyền đưa nó vào các cuộc chinh-phục công-phạt y như vua chúa. Các câu chuyện ‘chưởng’, vơ-thuật luôn làm mê-hoặc tâm-trí của trẻ em NF. Do đó cần phải để ư cẩn-thận xem trẻ em NF thích đọc các loại sách báo ǵ, v́ nó dễ bị mê-hoặc bởi các chuyệïn thần-thoại ma-quái, kinh-dị, phù-thủy, giết chóc v.v...

Trẻ em NF cũng như các trẻ em khác đều thích được người lớn như cha mẹ, giáo-chức đọc cho nghe các chuyện vượt qua mức-độ tập đọc của nó, v́ các chuyện đó kích-thích trí tưởng-tượng . Cũng giống như trẻ em NT, trẻ em NF thích được nghe đọc các chuyện đó nhiều lần. Nó cũng thích các tranh vẽ phức-tạp nhiều chi-tiết và các tranh hoạt-hoạ nhiều mầu. Trẻ em NF có khuynh-hướng thích-thú các đồ chơi về người, các búp-bê, các con vật, v́ nó có thể đồng-hóa ḿnh với các đồ chơi đó. Trẻ em NF coi việc mất các đồ chơi là một thảm-họa đáng kể và đáng tiếc. Các mẫu tính t́nh khác không hiểu được tại sao trẻ em NF lại có thể coi các đồ chơi y như người thật. Cũng như các trẻ em khác, trẻ em NF có khả-năng dùng các đồ chơi như các đồ vật tưởng-tượng, nhưng thay v́ t́m hiểu các câu chuyện đó, nó lại thêu dệt thêm chi-tiết cho câu chuyện đó. Không hiểu tại sao từ thuở nhỏ, trẻ em NF lại có khuynh-hướng kiếm một người bạn đường không chân-dung: có phải đây là đặc-tính của NF hay là của bất cứ mẫu tính t́nh nào? Dĩ nhiên, nếu trẻ em NF bị người lớn chỉ-trích bài-bác việc kiếm t́m người bạn đường không chân-dung, nó sẽ bị ảnh-hưởng tai-hại sau này.

Trẻ em NF không thích thi-đua cạnh-tranh như các mẫu tính t́nh khác. Trẻ em NF có khuynh-hướng rất nhậy cảm đối với tâm-t́nh ư-nghĩ của người khác. Nó cũng sẽ đau khổ với người thua kẻ bại, và cho dù nó là kẻ chiến-thắng, nó cũng thấy tội-nghiệp cho người thua. Trẻ em NF thích những tṛ chơi hoặc thi đua cho chính ḿnh nó hơn.

Mặc dầu tất cả các trẻ em đều có khuynh-hướng ghen tị giữa anh chị em với nhau, và dễ cảm thấy bị bỏ rơi khi có thêm một phần-tử (em bé) mới trong gia-đ́nh, nhưng cha mẹ phải cẩn-thận nhiều hơn đối với trẻ em NF trong giai-đoạn chuyển-tiếp đó, bởi lẽ nó luôn luôn t́m cách để nhận-diện chính ḿnh, để t́m ra giá-trị con người của ḿnh, để hiểu ư-nghĩa cuộc đời và chỗ đứng của nó trong thế-giới. Trẻ em NF có khuynh-hướng có cùng một cảm-nghiệm như trẻ em NT khi đi học: nó thấy ḿnh khác với các mẫu tính t́nh khác, khó mà ḥa-đồng. Nó cảm thấy ḿnh hơi khác người làm sao đó, và hầu như lúc nào cũng thấy ḿnh về phe thiểu-số cho đến khi lên đại-học.

Trẻ em INF thường nhút nhát mắc-cỡ và rất nhậy cảm đối với một cử-chỉ không vồn vă, một lời nói không chấp-nhận của giáo-chức. Nó có khuynh-hướng thần-tượng-hóa giáo-chức. Nếu bị chối-từ hoặc khinh-khi, nó có thể giận ghét giáo-chức một cách kinh-khủng. Trẻ em NF phát-triển thăng-tiến nếu được chú-ư tiêng biệt, và không thay đổi ǵ nếu bị đánh đập. Nó cần có những thói quen đàng-hoàng cẩn-thận đặt trên nền-tảng liên-hệ giao-tiếp giữa người lớn và trẻ em. Ảnh-hưởng bạn bè đối với trẻ em NF không đáng kể, cho dù nó có thể đau khổ v́ nhận thấy người khác làm hại bạn bè nó. Trẻ em NF, nhất là loại hướng-nội thiếu khả-năng để tự bảo-vệ chống lại các hành-động xẩy đến mà các mẫu tính t́nh khác có thể đối-phó dễ dàng.

Trong lớp học, trẻ em NF có khuynh-hướng hấp-thụ được nhiều nhất, khi học-sinh được sắp đặt để liên-hệ tiếp-xúc với nhau, hơn là mỗi đứa ngồi yên một chỗ quay lên trên. Trẻ em NF cần và thích được thảo-luận về nội-dung bài học. Nó thích học và tỏ ra nhậy cảm đối với các bài vở thuộc về lănh-vực t́nh-cảm, dễ thích-hợp với ngôn-từ thi-phú, và như đă nói trước, nó có khiếu ăn nói. Khi bàn căi thảo-luận, nó không nổi nóng bất-nhẫn, cho dù nó thấy bàn căi thảo-luận chỉ là lặp đi lặp lại những lời nói dông dài không cần-thiết.

Đứa trẻ NF dễ bị chán-nản nếu nó gặp phải giáo-chức trêu chọc nó hoặc có vẻ như coi thường bỏ bê nó. Thực ra đứa trẻ NF tỏ ra bực ḿnh khó chịu nếu bạn bè cùng lớp tẩy chay, và nó dễ tỏ ra thông-cảm với những đau khổ và lúng túng của người khác, có khi c̣n hơn chính người bị đau khổ hoặc lúng túng nữa. Lời hứa đối với đứa trẻ NF rất là quan-trọng. Nếu lời hứa đó không được tôn-trọng, đứa trẻ NF cảm thấy bị bỏ rơi trầm-trọng và coi cá-nhân ḿnh như bị coi thường. Nếu t́nh-trạng này xẩy ra thường-xuyên, đứa trẻ NF có thể có những triệu-chứng thể-lư như trong vấn-đề ăn uống tiêu-hóa. Những mâu-thuẫn gây gỗ ở gia-đ́nh hay nhà trường cũng tạo nên những bực tức khó chịu. Nó phát-triển thăng-tiến trong môi-trường thuận-tiện yêu thương.

Trẻ em NF thường học giỏi về ngôn-ngữ và có tài ăn nói. Nó có sở-trường của nó, và nó thường tập đọc sách vở rất dễ dàng, cũng như viết và nó lưu-loát, và rất thích các phương-tiện truyền-thông. Nó thích làm việc trong các nhóm nhỏ, và phát-triển thăng-tiến trong các lớp học có kiểu-cách dân-chủ. Nó có khuynh-hướng ép ḿnh vào khuôn phép và ước-vọng của người lớn, nếu như nó tin rằng người lớn thích nó. Đứa trẻ NF thường tỏ ra dễ tính dễ chơi, và nó muốn làm vui ḷng người khác. Nó cần phải được người khác cho biết người ta quư mến nó. Khi có một sáng-kiến ǵ, nó đem hết tất cả tâm-hồn ra để thực-hiện sáng-kiến đó: trong trường-hợp này chỉ cần một chút chê bai là đă đủ làm cho nó cảm thấy bị bỏ rơi. Trẻ em NF không cảm thấy thoải-mái trong đám đông với những lời giảng-dạy tổng-quát chung chung không lưu-ư tới từng người, hoặc trong trường-hợp giáo-chức quá tỉ mỉ để ư cách riêng tới mẫu tính t́nh này. Trẻ em NF cần được giáo-chức cũng như cha mẹ thương yêu quư mến.

Học-sinh NF thường thích học các bộ-môn về xă-hội cũng như sinh-ngữ, v́ cả hai bộ-môn đều có liên-quan tới con người trong việc giao-tiếp. Đứa trẻ NF nh́n thế-giới với con mắt cá-nhân riêng biệt, nên nó cảm thấy hấp-dẫn thích-thú khi học hỏi về thái-độ và giá-trị con người, xem họ thích ǵ, phản-ứng ra sao, muốn ǵ, nói ǵ và làm ǵ. Nó thích thế-giới các tư-tưởng và giá-trị, nhưng luôn luôn có khuynh-hướng nhận-định mọi sự qua con người của nó coi đó như là trung-tâm-điểm.

Trẻ em NF khó biết xử-trí với cơn nóng giận của ḿnh cũng như của người khác, nhất là trẻ em NF hướng-nội. Nó ghê tởm cơn nóng giận v́ nhận thấy đó là tật xấu, và nó bỏ đi v́ khinh-khi.

Trẻ em NF nhận-thức qua các h́nh-ảnh và ấn-tượng. Nó có khuynh-hướng bằng ḷng với lối học tổng-quát chung chung. Nếu nó thu-nhận được một kiến-thức tổng-quát về vấn-đề mà bỏ qua đi các chi-tiết lặt vặt, nó vẫn tin rằng nó đă nắm vững đủ vấn-đề. Ngược lại, đứa trẻ NT lại muốn hiểu biết từng chi-tiết của một vấn-đề thật chính-xác và hầu như có tật ham học quá đáng. Đứa trẻ NF muốn và khát khao được biết ḿnh là ai, và một trong các cách nó biết được như vậy là khi được người khác để ư riêng tư. Đứa trẻ NF thường dễ cảm thấy được yêu thương quư mến thân-t́nh qua các gần gũi thể-lư như sờ mó, đụng chạm, vuốt ve. Điều làm nó thích nhất là được người khác nói với nó: ‘Em (bạn) rất tốt (quan-trọng) đối với tôi. Tôi cảm-phục em (bạn)’.

 

 


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12 13 14 15 16 17 18

 

Xem các bài viết khác trong Anthony Vũ Hùng Tôn.